Chào bạn!
Luật sư NGUYỄN ĐỨC LONG - Văn phòng luật sư Đức Tín thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:
I. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Nhà đất chồng bạn có được trước khi kết hôn là tài sản riêng của chồng bạn, nó chỉ là tài sản chung khi vợ chồng bạn có thỏa thuận hoặc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Vì vậy, khi ly hôn nếu vợ chồng bạn không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, việc chia tài sản khi ly hôn theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi có xem xét đến hoàn cảnh, công sức đóng góp của mỗi bên.
Tại Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn như sau:
"1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".
II. Trong trường hợp ly hôn, con bạn dưới ba tuổi được giao cho bạn trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Trường hợp khi con bạn đã đủ ba tuổi thì Toà án sẽ xem xét giao con cho bạn hoặc chồng bạn trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để cháu có điều kiện phát triển về thể chất, tinh thần và điều kiện học tập.
Tại khoản 2 Điều 92 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định như sau:
“Vợ chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”
Theo đó, tại điểm d phần 11 Nghị quyết02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định cụ thể hơn:
“Trong trường hợp, vợ chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai. Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Thân chào!