Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Đức Long - luatsuduclong

2 Trang 12>
  • Xem thêm     

    15/11/2016, 11:12:23 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu có một thế lực ngầm nào đó như bạn nói, họ có làm sai lệch hồ sơ xác định về việc em của bố bạn không bị tâm thần để xúi giục người đó bán thửa đất thì bố của bạn cũng không liên đới chịu trách nhiệm về những nghĩa vụ của người đó.

    Để giữ lại thửa đất nêu trên, thì bố của bản có thể đề nghị người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố em của bố bạn mất năng lực hành vi dân sự và chỉ định người giám hộ là bố bạn. Như vậy, người đó có đem thửa đất trên ra giao dịch thì giao dịch đó bị vô hiệu.

    Thân! 

  • Xem thêm     

    14/11/2016, 09:54:43 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ).

    Vì em của bố bạn là người mất năng lực hành vi dân sự nên việc bố của bạn đại diện cho em của mình làm việc với UBND xã để ký hồ sơ xin cấp lại sổ đỏ là phù hợp với quy định của pháp luật.

    Bố của bạn ký hồ sơ xin cấp lại sổ đỏ cho em mình và nếu sau này thửa đất bị tranh chấp hoặc ai đó đem gia giao dịch là 02 vấn đề khác nhau, bố của bạn không liên quan đến việc bị liên đới chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài sản của cá nhân mình.

    Thân!

  • Xem thêm     

    04/11/2013, 10:39:09 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Muốn khởi kiện thì bạn phải cung cấp cho Tòa án những tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ.

    Trong trường hợp chủ đầu tư không cho mượn lại hợp đồng để đối chiếu thì công ty bạn sẽ không chứng minh được anh A đã lấy tiền của công ty. Như vậy, Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    23/10/2013, 10:43:39 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo Điều139 Bộ Luật Hình sự quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

    "1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

    Theo Điều140 Bộ Luật Hình sự quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    "1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".

    Như vậy, trong trường hợp bạn vay tiền của ông A để làm ăn và không có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của ông A hoặc dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền vay hoặc đã sử dụng số tiền vay đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại số tiền thì sẽ không phạm tội Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Thân!

  • Xem thêm     

    09/10/2013, 06:07:26 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trong trường hợp người có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác, sau đó người này đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại thì đây là tình tiết để được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chứ không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.

    Trừ trường hợp mẹ bạn không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì người này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không phải đi tù.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 03:56:32 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Việc anh A đã lấy đi hợp đồng mà Công ty đã ký với chủ đầu tư thì bạn có thể liên hệ với chủ đầu tư để đề nghị cấp bản sao hợp đồng.

    Đối với trường hợp phiếu thu anh A đã thu không có dấu Công ty nhưng nội dung thu tiền nằm trong giao dịch giữa Công ty và khách hàng.

    Để làm rõ mục đích anh A lấy hợp đồng mà Công ty đã ký với chủ đầu tư, tự ý thu tiền khách hàng, sử dụng phiếu thu và hành vi của anh A, bạn có thể trình báo hành vi trên với Cơ quan điều tra, cơ quan điều tra sẽ xác minh và xử lý.

    Thân!

  • Xem thêm     

    16/07/2013, 03:29:11 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, luật sư tư vấn như sau:

    Quá trình thi công xong, lợi dụng uy tín của Công ty, anh A tự ý thu mấy trăm triệu tiền khách hàng mà không nộp về Công ty. Trong trường hợp này, anh A đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều140 Bộ Luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    "1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".

    Để lấy lại số tiền, công ty cần trình báo cơ quan công an về hành vi của nhân viên trên và cung cấp những giấy tờ sau: Hợp đồng lao động; Giấy tờ chứng minh anh A được giao công việc làm nhân viên kinh doanh quan hệ khách hàng; Bản sao Hợp đồng đã ký với chủ đầu tư; Phiếu thu tiền của khách hàng. Trong quá trình giải quyết, tùy theo tính chất mức độ của hành vi phạm tội, anh A sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ dân sự trả lại tài sản cho người bị hại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 10:55:40 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo Điều 151 Bộ Luật Hình sự quy định về Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình như sau: "Người nào ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm".

    Như vậy, trong trường hợp có chứng cứ chứng minh việc anh trai bạn ngược đãi má của bạn thì bạn có thể trình báo cơ quan công an xử lý. Tùy theo tính chất mức độ và hành vi của anh trai bạn, Cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc hành chính.

    Thân!

     

  • Xem thêm     

    10/07/2013, 12:09:52 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trong trường hợp việc gây tai nạn giao thông do lỗi của người điều khiển xe ô tô buýt thì trách nhiệm của công ty vận tải hành khách và người lái xe buýt như sau:

    1. Theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau: “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

    2. Ngoài việc người lái xe buýt phải chịu trách nhiệm hình sự, người lái xe buýt còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại về tính mạng và sức khỏe cho người bị hại:

    Theo Điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm như sau:

    "1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

    Theo Điều 610 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:

    "1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

    Như vậy, người lái xe buýt phải bồi thường về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho Anh Lý Văn B, chị Nguyễn Thị Th, bồi thường về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm cho cháu Lý Sinh H và các chi phí khác theo quy định tại khoản 1 Điều 609 và khoản 1 Điều 610 Bộ Luật Dân sự năm 2005.

    3. Khi xảy ra tại nạn giao thông thì công ty vận tải hành khách có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người lái xe buýt có nghĩa vụ hoàn trả cho công ty một khoản theo quy định của pháp luật.

    Theo Điều 618 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra như sau: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật".

    Thân!

  • Xem thêm     

    13/04/2013, 12:22:51 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Vụ án của mẹ bạn đã có quyết định giám đốc thẩm của tòa án tối cao hủy án sơ thẩm, phúc thẩm và yêu cầu xét xử lại ở Tòa án cấp sơ thẩm.

    Theo điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định về Thời hạn chuẩn bị xét xử như sau: "Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án".

    Cũng tại khoản 1 Điều 179 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định: "Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này".

    Như vậy, đến nay đã 01 năm mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa đưa vụ án ra xét xử lại theo đúng trình tự thủ tục là vi phạm thời hạn tố tụng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mẹ bạn có thể khiếu nại hành vi tố tụng của thẩm phán thụ lý vụ án.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    09/04/2013, 04:38:00 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Trường hợp của bạn cũng như trường hợp của bạn . Bạn tham khảo bài tư vấn của tôi ở trên nhé.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    25/03/2013, 04:00:21 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Vâng! Không có gì đâu ông ạ.

    Chúc ông thành công!

  • Xem thêm     

    23/03/2013, 03:39:22 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào ông!

    Việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông và ông B không thuộc thẩm quyền của UBND quận vì thửa đất của ông đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án nhân cấp cấp quận huyện.

    Theo khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003 quy định về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau: "Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết".

    Theo thông tin ông cung cấp tôi tư vấn như trên. Nếu cần tư vấn cụ thể hơn, ông có thể hỏi tiếp.

    Chúc ông thành công!

  • Xem thêm     

    13/03/2013, 12:03:45 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo Điều 200 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định về Sự có mặt của bị đơn tại phiên toà như sau:

    "Bị đơn phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ".

    Như vậy, bạn có quyền được xin hoãn phiên toà lần thứ nhất nếu có lý do chính đáng. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.

    Theo điểm đ khoản 2 Điều 58 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004 ban hành năm 2011 quy định về Quyền, nghĩa vụ của đương sự như sau: "Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập".

    Như vậy, đây là quyền của bạn, trường hợp thẩm phán không cho bạn sao chụp hồ sơ thì bạn có thể khiếu nại hành vi tố tụng của thẩm phán.

    Theo khoản3 Điều 21 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004 ban hành năm 2011 quy định về Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự: "Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm".

    Như vậy, việc Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố, cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng dân sự.

    Để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bạn nên mời Luật sư tham gia vụ án.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    12/03/2013, 10:59:21 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ Công an đã ban hành Thông tư 12/2013 (có hiệu lực từ ngày 15/4/2013) sửa đổi, bổ sung Thông tư số 36/2010 về đăng ký xe. Từ ngày 15/4/2013 đến ngày 31/12/2014, những xe mua bán qua nhiều đời chủ mà không có chứng từ chuyển nhượng hoặc chứng từ chuyển nhượng đã quá lâu hoặc không tìm thấy người chủ đầu tiên thì sẽ được cấp đăng ký lại. Người sử dụng xe chỉ cần có giấy khai đăng ký sang tên (theo mẫu) và viết cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về xe làm thủ tục đăng ký, có xác nhận về địa chỉ thường trú của người đang sử dụng xe của công an cấp xã nơi người đang sử dụng xe thường trú.

    Trường hợp sang tên, di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác thì phải đến cơ quan đăng ký xe ghi trong giấy chứng nhận đăng ký xe để nộp hồ sơ. Sau khi rút hồ sơ gốc thì đến cơ quan đăng ký xe, nơi mình đăng ký thường trú để nộp hồ sơ đăng ký xe.

    Theo đó, cơ quan đăng ký xe sẽ tiếp nhận hồ sơ và gửi thông báo đến người đứng tên trong đăng ký xe biết và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đăng ký xe. Sau 30 ngày nếu không có các khiếu nại, tranh chấp thì cơ quan đăng ký xe sẽ giải quyết cấp biển số, giấy chứng nhận đăng ký xe cho người đang sử dụng xe.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    07/03/2013, 09:18:24 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Tâm lý của một người khi bị mất tài sản thì hay nghi ngờ cho những người có mặt tại hiện trường. Người xưa có câu: "một mất mười ngờ". Bạn cũng đừng tức giận quá vì "cây ngay không sợ chết đứng". Hơn nữa nhà chị ấy còn có camera chứng minh cho sự trong sáng của bạn.

    Hành vi của chị ấy là gọi điện cho bạn và nói: "hôm trước em có cầm nhầm cái đồng hồ kim cương của chị thì mai mang cho chị nhé, nhà chị có camera đấy". Chị ấy không phạm tôi vu khống đâu bạn ạ.

    Theo Điều 122 Bộ luật hình sự quy đinh về Tội vu khống như sau: "Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền".

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/01/2013, 11:37:10 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Người có hành vi vu khống là dùng lời nói bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền thì phạm tội vu khống theo Điều 122 Bộ luật hình sự.

    Như vậy, việc vợ người yêu cũ của bạn chửi bạn có nhiều đến đâu và thậm tệ hơn nữa bằng cách gửi thư qua địa chỉ email thì chị ta vẫn không phạm tội vu khống.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/01/2013, 01:52:59 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, luật sư Nguyễn Đức Long - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    1. Bạn của em có trộm cắp số tiền 14 triệu đồng đã phạm vào Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm a khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009:

    "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".

    Tuy nhiên, bạn của em sau khi có hành vi trộm cắp tài sản đã: Tự thú; Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 46, điều 47 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn cho bạn em.

    2. Bạn em có bị đưa ra xét xử hay không phụ thuộc vào kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, truy tố bằng cáo trạng của Viện kiểm sát và thời hạn xét xử của Tòa án. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thời hạn truy tố, xét xử vụ án hình sự như sau:

    - Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra, trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.

    - Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng. Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.

    - Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày. Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

    Trong trường hợp nếu sau khi kết thúc điều tra mà thời hạn truy tố bị can, xét xử vụ án kéo dài hơn quy định trên thì Viện kiểm sát, Toà án đã vi phạm thủ tục tố tụng.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    16/01/2013, 09:54:34 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Nguyễn Đức Long tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Điều 124 Bộ Luật hình sự về Tội xâm phạm chỗ ở của công dân như sau:

    "1. Người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    c)  Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3.  Người phạm tội còn có thể  bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm".

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật. Những người kia có hành vi tự ý vào nhà của bạn xây bức tường ngăn cách trên phần đất cuả nhà bạn là vi phạm pháp luật. Vì vậy, việc bạn yêu cầu họ ra khỏi phạm vi đất nhà bạn là phù hợp với quy định của pháp luật.

    Để xét bạn có hành vi đe doạ dùng vũ lực trái pháp luật đối với họ là một vấn đề rất khó mà họ có thể chứng minh. Trong trường hợp những người kia yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi của bạn thì đồng thời họ cũng tự khẳng định họ có hành vi vi phạm pháp luật.

    Thân!

  • Xem thêm     

    03/01/2013, 10:42:02 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    1. Quyền thay đổi họ, tên:

    Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong trường hợp: "Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó".

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định về Phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch như sau: "Thay đổi họ, tên, chữ đệm đã được đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng cá nhân có yêu cầu thay đổi khi có lý do chính đáng theo quy định của Bộ luật Dân sự".

    Như vậy, bạn có thể thay đổi tên nếu thuộc một trong các trường hợp như trên.

    2. Thủ tục thay đổi họ tên:

    Theo quy định tại khoản 2, Điều 37 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về thẩm quyền giải quyết: Ủy ban nhân dân cấp huyện, mà trong địa hạt của huyện đó đương sự đã đăng ký khai sinh trước đây, có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi.

    Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 38 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo khoản 10 Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP về thủ tục đăng ký việc thay đổi họ tên thực hiện như sau:

    Người yêu cầu thay đổi họ tên phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi họ tên và các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi.

    Người yêu cầu thay đổi họ tên có thể trực tiếp hoặc nộp hồ sơ qua hệ thống bưu chính. Trong trường hợp gửi qua hệ thống bưu chính, thì các giấy tờ có trong thành phần hồ sơ phải là bản sao có chứng thực; trường hợp trực tiếp thì nộp bản sao kèm bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực.

    Riêng đối với việc thay đổi họ tên cho công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, thì phải trực tiếp nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp, nơi có thẩm quyền giải quyết việc hộ tịch nêu trên.

    Chúc thành công!

2 Trang 12>