Tư Vấn Của Luật Sư: Nguyễn Thị Hướng - Ls.Nguyenthihuong

4 Trang «<234
  • Xem thêm     

    10/06/2013, 10:43:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ nên tôi chưa đánh giá được việc cơ quan công an phạt bạn là đúng hay sai.

    Khi bạn đi cùng một đám bạn mà đánh người khiến họ phải nhập viện thì tùy vào tình hình của người bị hại mà đánh giá mức độ của hành vi. Việc xác định lỗi của từng người sẽ phụ thuộc vào việc điều tra, lấy lời khai của những người tham gia và những người làm chứng. Trên cơ sở đó, cơ quan điều tra sẽ ra những quyết định để giải quyết vụ việc.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 05:54:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Bạn cho rằng gia đình người thanh niên có hành vi đút lót thì bạn phải có  được chứng cứ cụ thể để chứng minh lời nói của bạn là đúng thì mới có cơ sở để pháp luật giải quyết, còn bạn không đưa ra được chứng cứ chứng minh thì bạn không nên đưa ra vì có thể bạn sẽ phạm vào tội Vu khống.

    Việc đánh giá lỗi như tôi đã nói ở lần trả lời trước, việc xác định lỗi phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có kết quả khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra (nếu cần thiết), việc kiểm tra xác định xem có vi phạm pháp luật giao thông hay không.

    Bạn cần xin sao chụp biên bản khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai và các văn bản liên quan đến vụ việc của cơ quan công an để xem xét cụ thể thì mới có thể đưa ra ý kiến tư vấn chính xác.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 09:48:30 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Việc điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ phải tuân thủ quy định pháp luật về giao thông đường bộ. Việc anh của bạn có bị khởi tố về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Điều 202 Bộ luật Hình sự hay không thì phải xem xét về mức độ lỗi của anh bạn. Nếu anh bạn không có lỗi (không vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ) thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Việc xác định có lỗi hay không có lỗi trong vụ án hình sự thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

    "Điều 202.  Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

    ..."

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    04/06/2013, 09:54:39 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Thông tin bạn cung cấp không đủ để kết luận việc ai đúng, ai sai, mức độ lỗi của từng người trong vụ tai nạn.

    Trong vụ án tai nạn giao thông, việc xác định ai là người có lỗi phụ thuộc rất nhiều vào biên bản khám nghiệm hiện trường và thực nghiệm điều tra, lời khai của người làm chứng  vì những hoạt động này giúp thu thập được những chứng cứ chứng minh về tốc độ, về việc tuân thủ luật lệ giao thông...

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    03/06/2013, 01:13:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trên cơ sở thông tin bạn cung cấp tôi trả lời bạn như sau: 

    Bạn cần cung cấp các văn bản như: tờ khai, quyết định tạm giữ bị can bị cáo, cáo trạng của Viện kiểm sát, bản án của Tòa thì tôi mới có thể đưa ra lời tư vấn chính xác cho bạn. 

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    03/06/2013, 12:52:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Theo quy định tại Thông tư 11/2013/TT-BCA thì

    - Trong thời hạn hẹn giải quyết vi phạm hành chính mà bạn tiếp tục điều khiển xe tham gia giao thông và có vi phạm thì tùy vào mức độ vi phạm và loại vi phạm của bạn mà người có thẩm quyền ra các quyết định hành chính phù hợp.

    - Trong trường hợp quá thời hạn hẹn giải quyết vi phạm (bị tạm giữ giấy phép) mà bạn tiếp tục điều khiển xe tham gia giao thông và có vi phạm thì người có thẩm quyền sẽ lập biên bản vi phạm về lỗi không xuất trình giấy phép lái xe, lỗi mới vi phạm và sẽ tạm giữ phương tiện của bạn.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    03/06/2013, 11:43:09 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Thông tin bạn cung cấp không đủ để tôi có thể đưa ra ý kiến tư vấn chính xác cho bạn được, bạn cần cung cấp cho tôi về các quyết định của cơ quan công an: Quyết định tạm giữ hoặc Tạm Giam, Quyết định khởi tố vụ án ...

    Điều 115 Bộ luật Hình sự quy định về tội Giao cấu với trẻ em như sau: 

    "Điều 115.  Tội giao cấu với trẻ em  

    1.  Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Có tính chất loạn luân;

    d) Làm nạn nhân có thai;

    đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội."

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    03/06/2013, 11:36:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn, 

    Tùy vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bạn mà tòa án căn cứ vào đó để đưa ra phán quyết đối với hành vi của bạn.

    "Điều 248. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm."

    Theo thông tin bạn cung cấp thì mức hình phạt mà bạn có thể phải chấp hành là:

    Phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu

    Phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    31/05/2013, 03:19:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Theo quy định tại Điểm i Khoản 4, Điểm b Khoản 9 Điều 9 Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 2/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì:

    Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy đi ngược chiều của đường một chiều bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 30 ngày.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    31/05/2013, 03:14:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trong trường hợp của bạn, bạn hãy chụp lại nội dung thông tin mà người khác đăng trên mạng như bạn nói, đồng thời bạn viết đơn gửi lên cơ quan công an đề nghị họ can thiệp.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    20/05/2013, 10:49:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Thay mặt Công ty Luật TNHH Triệu Sơn tôi trả lời bạn như sau: 

    Việc xác định có hay không có trách nhiệm hình sự thì phải căn cứ vào hành vi của bạn kia và quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Trong trường hợp mà hành vi của các bạn đó gây thiệt hại và phạm vào các quy định tại Điều 143 và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị khởi tố hình sự. Việc gia đình bị hại rút đơn tố cáo chỉ là yếu tố để xem xét việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với loại tội này, cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án nếu hành vi cấu thành tội phạm kể cả khi bị hại rút đơn.

    Bạn có thể tham khảo các điều luật sau: 

    Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 đã sửa đổi năm 2010

    "Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản

    1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    d) Để che giấu tội phạm khác;

    đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;

    e) Tái phạm nguy hiểm;

    g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b)  Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

    Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự:

    "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."

    Trân trọng!

     
  • Xem thêm     

    20/05/2013, 10:27:30 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trên cơ sở thông tin bạn cung cấp thì bạn của bạn có thể đang bị tạm giữ tại cơ quan công an. Việc tạm giữ được áo dụng trong trường hợp quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003:

     

    "Điều 86. Tạm giữ

    1. Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

    2. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.

    Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

    3. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

    Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản.

    Điều 87. Thời hạn tạm giữ

    1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

    2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

    3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

    4. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam." 

    Theo những quy định trên thì thời hạn tạm giữ là 3 ngày và có thể được gia hạn nếu có đủ căn cứ và tối đa không quá 9 ngày. Khoản 3 Điều 87 nêu rõ nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can trong khi tạm giữ thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Như vậy, nếu cơ quan điều tra không đủ căn cứ để khởi tố bạn của bạn thì bạn của bạn sẽ được trả tự do trong thời hạn vừa nêu. Trong khi bị tạm giữ thì người bị tạm giữ có quyền liên hệ với người thân, bạn của bạn mới bị bắt đêm qua thì có thể vẫn đang trong thời hạn tạm giữ. 

    Việc bảo lãnh như bạn nêu ở trên, trong tố tụng hình sự được gọi là Bảo lĩnh, được quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng Hình sự và là biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam, phải có ít nhất 2 người thân thích của người bị tạm giữ mới có thể bảo lĩnh:

    iều 92. Bảo lĩnh

    1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

    2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

    3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.

    4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

    5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác."

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    20/05/2013, 09:27:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trên cơ sở thông tin bạn cung cấp tôi tư vấn cho bạn như sau: 

    Bạn nói em của bạn "trộm cắp nhiều lần nhưng không nghiêm trọng" nhưng "Công an thành phố Quy Nhơn lại bắt giam em ấy hơn hai tháng". tôi rất khó đánh giá được mức nghiêm trọng của việc phạm tội của em bạn do thiếu thông tin. Bạn có thể xem tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định về tội trộm cắp tài sản như sau:

     

    "Điều 138.  Tội trộm cắp tài sản 

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b)  Có tính chất chuyên nghiệp;

    c)  Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g)  Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt  nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng."

    Việc kết luận em bạn có phạm tội hay không, mức án bao nhiêu thuộc thẩm quyền của Tòa án trên cơ sở căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, thái độ hợp tác của người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên tôi không thể đưa ra cho bạn mức án cụ thể được.

    Đối với việc Bảo lĩnh: Cơ quan Điều tra sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng Hình sự và đơn yêu cầu cho bảo lĩnh của thân nhân bị can để quyết định cho bảo lĩnh hay không.

     

    "Điều 92. Bảo lĩnh

    1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

    2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

    3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.

    4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

    5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác."

    Trân trọng!

     

4 Trang «<234