Tư Vấn Của Luật Sư: Nguyễn Thị Hướng - Ls.Nguyenthihuong

4 Trang <1234>
  • Xem thêm     

    13/01/2016, 09:33:27 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn, vấn đề của bạn tôi xin được trả lời như sau: 

    Theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung 2009 thì tội sử dụng trái phép chất Ma túy đã bị bãi bỏ, có một số tội sau đây đang có hiệu lực: 

    "Điều 197. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

    1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên;

    d) Đối với phụ nữ mà biết là đang có thai;

    đ) Đối với người đang cai nghiện;

    e) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    g) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;

    h) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người;

    b) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    c) Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người;

    d) Đối với trẻ em dưới 13 tuổi.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 198. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý

    1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Đối với trẻ em;

    d) Đối với nhiều người;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Điều 200. Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy

    1. Người nào cưỡng bức hoặc lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến  bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Vì động cơ đê hèn;

    d) Đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên;

    đ) Đối với phụ nữ mà biết là đang có thai;

    e) Đối với nhiều người;

    g) Đối với người đang cai nghiện;

    Điều 201. Tội vi phạm  quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác

    1. Người nào có trách nhiệm trong việc xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác mà vi phạm quy định về  quản lý, sử dụng các chất đó, thì bị phạt tiền từ  năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm  năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  năm năm đến mười hai năm:

    a)  Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến  hai mươi năm.

    4. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    i) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;

    k) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi  năm :

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết người;

    b) Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người;

    c) Đối với trẻ em dưới 13 tuổi.

    4. Phạm tội trong trường hợp gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng."

    Vì em bạn đang bị tạm giữ nhưng gia đình lại không nắm được các quyết định của cơ quan có thẩm quyền . Để xác định được hành vi của em bạn có bị truy cứu TNHS hay không thì bạn nên tới một Văn phòng luật sư nào đó để được tư vấn cụ thể. Nếu bạn nhờ luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho em bạn thì họ sẽ tham gia tố tụng ngay từ đầu và có thể tiếp xúc với hồ sơ, nghi can và cơ quan tố tụng để làm rõ sự việc.

     

    Trân trọng.

  • Xem thêm     

    06/01/2016, 09:04:58 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trong trường hợp của bạn, bạn đã gửi đơn tới cơ quan công an trình báo về việc bị mất tài sản, trên cơ sở yêu cầu của bạn, cơ quan công an sẽ tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ việc, nếu xét thấy hành vi có đầy đủ dấu hiệu để khởi tố hình sự thì sẽ tiến hành khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

    Khi gia đình bị hại xin lỗi và bồi thường thiệt hại và bạn có đơn yêu cầu muốn rút đơn thì đó chỉ là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu sự việc đủ dấu hiệu để khởi tố. Chỉ trong những trường hợp theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự thì vụ án được đình chỉ khi người yêu cầu khởi tố rút đơn

    "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."

    Như vậy, Điều 138 về Tội Trộm cắp tài sản không thuộc trường hợp nêu tại Điều 105 trên.

     

    Trân trọng.

  • Xem thêm     

    28/12/2015, 08:52:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn! Câu hỏi của bạn tôi trả lời như sau:

    Hành vi giả mạo chữ ký của người khác là trái quy định của pháp luật và tùy vào hậu quả xảy ra có thể bị xử lý vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể. Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào các yếu tố như động cơ, mục đích phạm tội. Chẳng hạn:  Hành vi giả mạo chữ ký của người khác để chiếm đoạt tài sản, tước quyền thừa kế của ngươì khác thì có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đối với một người có chức vụ, quyền hạn mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích trục lợi thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác,…

    Trân trọng.

  • Xem thêm     

    08/09/2015, 09:26:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Điều 163 Bộ luật Hình sự về tội cho vay lãi nặng quy định: 

    " 1. Người nào cho vay mới mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tish chất chuyên bóc lột, thì ị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

    2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    3. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cầm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm."

    Như vậy, trên cơ sở mức lãi suất bạn cho vay vào khoảng 30%/tháng, mức lãi suất này vượt quá mức lãi suất mà pháp luật quy định trên 10 lần, việc cho vay của bạn có dấu hiệu cho vay nặng lãi.

    Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có điều khoản nào quy định về hành vi gọi là "cho thuê nặng lãi".

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/11/2013, 02:23:24 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trường hợp của bạn tôi tư vấn như sau:

    Việc đồng nghiệp của bạn để quên điện thoại ở trường là do lỗi của người đó, để xác định là bảo vệ trường lấy cắp cần phải có chứng cứ chứng minh hành vi đó của người bảo vệ.

    Nếu thật sự người bảo vệ có hành vi trộm cắp tài sản theo như bạn đã nêu thì có thể bị xử lý theo quy định của trường và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/11/2013, 11:31:31 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn, trường hợp của bạn tôi tư vấn như sau:

    Việc bạn được giao tiền để thanh toán các khoản chi và dư lại 1.800.000đ, về nguyên tắc bạn phải bàn giao lại khoản tiền này cho nhà hàng, nếu bạn nghỉ việc mà không hoàn lại tiền thì hành vi của bạn là hành vi chiếm đoạt khoản tiền nêu trên. Nếu bạn không hoàn trả thì bạn có thể bị phạt hành chính về hành vi này.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    25/10/2013, 09:47:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Đối với trường hợp của Trung tâm thẩm mỹ viện Cát Tường thì để xác định xem ông Tường bị truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào thì cần phải xác định được nguyên nhân gây ra cái chết của chị Huyền và các thông tin thu được trong quá trình điều tra để xác định tội danh.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    25/10/2013, 08:59:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào anh,

    Trong trường hợp của vợ anh thì nếu yêu cầu người anh trai của bạn vợ trả lại điện thoại mà anh ta không trả hoặc thể hiện ý định không muốn trả thì anh có thể viết đơn tố cáo hành vi của người đó tới cơ quan công an có thẩm quyền. Phần nội dung đơn thì bao gồm các thông tin như: người nhận, người gửi, nội dung sự việc và đề nghị của người viết đơn, chữ ký, ngày tháng viết.

    Anh có thể tham khảo nội dung hai điều luật dưới đây:

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 140.  Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này."

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    25/10/2013, 08:50:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào anh,

    Trong trường hợp của anh thì người tên Thành có thể phạm vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của bộ luật hình sự:

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 140.  Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này."

    Anh có thể xem xét đối chiếu hành vi của người tên Thành với các quy định của các điều khoản nêu trên. Nếu có dấu hiệu của tội phạm thì anh có thể làm đơn gửi cơ quan công an có thẩm quyền tố cáo về hành vi của người đó.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    17/10/2013, 11:13:48 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Hình sự.

    "1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm:

    a) Hành hung để tẩu thoát;

    ..."

    Bạn có thể đối chiếu hành vi của khách hàng của bạn với quy định của điều khoản nêu trên để xác định xem người khách hàng đó có Vi phạm vào điều khoản này không vì thông tin bạn cung cấp còn thiếu nên tôi không tư vấn cho bạn một cách chính xác được.

    Về Giá trị tài sản: 900.000đ Thấp hơn so với mức của điều luật quy định nên cần xem xét xem hành vi của người đó có "gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích" hay không.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 11:53:18 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn, với những thông tin bạn cung cấp tôi tư vấn như sau:

    Trong sự việc này, người có lỗi trước tiên là cậu của bạn đã cầm dao ra gây chuyện, gây thương tích cho gia đình ông B. Cậu của bạn đã từng có tiền án nên về mặt nhân thân là không tốt.

    Có hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định định tại Điều 46 Bộ luật hình sự có thể giúp cậu của bạn giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (nếu hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm ):

    1. Tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại (theo điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự);

    2. Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm P khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự).

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    03/10/2013, 02:15:46 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn, với câu hỏi của bạn tôi trả lòi như sau:

    Khi người khác có hành vi tấn công mình thì mình có quyền phòng vệ. Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định trường hợp phòng vệ chính đáng không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Theo quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự thì đối với trường hợp của bnaj thì bạn có quyền phòng vệ khi người đàn ông kia tấn công bạn và sự phòng vệ là chính đáng: Việc phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả lại một cách cần thiết người  đang có khành vi xâm phạm lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    22/08/2013, 08:24:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Khi tham gia giao thông, người lái xe có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật về điều khiển phương tiện giao thông. Khi có sự va chạm hoặc tai nạn giao thông, người lái xe phải dừng xe, xuống xe xem xét vụ việc, nếu có người bị thương thì đưa đến cơ sở y tế gần nhất. Vụ việc va chạm xảy ra, thì báo cơ quan công an để điều tra, làm rõ. Người nào có lỗi đối với thiệt hại xảy ra thì người đó có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 09:53:25 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trong trường hợp của bạn thì tôi trả lời như sau:

    Các bên khi tham gia giao thông phải đảm bảo các quy tắc giao thông, nếu vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì có thể phạm vào Điều 202 Bộ luật hình sự: 

    "Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

    Trên cơ sở điều tra, xác định lỗi của các bên, hậu quả, thiệt hại xảy ra thì tùy vào mức độ lỗi và mức độ thiệt hại để xác định mức bồi thường.

    Để có thể xác định được bên nào có lỗi lớn hơn thì phải phụ thuộc rất nhiều vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra, với những thông tin bạn cung cấp thì tôi không thể trả lời được cụ thể hơn. 

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 08:57:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trên cơ sở thông tin của bạn tôi tư vấn cho bạn như sau:

    Việc xác định độ tuổi của bạn gái bạn vào thời điểm bắt đầu quan hệ rất quan trọng trong việc xác định hành vi của bạn vào thời điểm quan hệ có phạm tội hình sự hay không. Vì thông tin bạn cung cấp không cụ thể nên rất khó có thể tư vấn cho bạn một cách chính xác, tôi tóm tắt cho bạn một số trường hợp sau:

    - Quan hệ với bé gái dưới 13 tuổi:  Tội hiếp dâm trẻ em (dù tự nguyện hay không);

    - Quan hệ với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi: Người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội Giao cấu với trẻ em.

    - Quan hệ với người từ đủ 16 tuổi trở lên: Nếu dùng vũ lực ép buộc, đe dọa, cưỡng ép giao cấu trái ý muốn: Tội hiếp dâm.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 08:45:46 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Trên cơ sở thông tin bạn cung cấp tôi tư vấn như sau: 

    Trong trường hợp của em bạn nêu trên, việc tụ tập gây sự, đánh nhau, sử dụng vũ khí có dấu hiệu của tội "Gây rối trật tự công cộng". Điều 245 Bộ luật Hình sự quy định: 

    " 1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: 

    a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;

    b) Có tổ chức;

    c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc đình trệ hoạt động công cộng;

    d) Xúi giục người khác gây rối;

    đ) Hành hung người can thiệp bảo vêm trật tự công cộng; 

    e) Tái phạm nguy hiểm."

    Khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra thì sẽ tìm các căn cứ để xác định mức độ lỗi của nhóm, xác định hậu quả và mức độ nghiêm trọng của hậu quả và các dấu hiệu khác liên quan, trên cơ sở đó, họ sẽ đưa ra kết luận về vụ việc và mức hình phạt tương ứng.

    Việc đập phá chiếc xe máy có thể cấu thành tội hủy hoại tài sản theo quy định tại Điều 143 của Bộ luật tố tụng hình sự.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/07/2013, 10:30:04 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Với thông tin bạn cung cấp tôi tư vấn cho bạn như sau:

    - Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 

    "Điều 12.  Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc  tội phạm  đặc biệt nghiêm trọng."

    Như vậy, em bạn tính đến nay là sang tuổi 16, tuy nhiên, vì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu trên tính theo tuổi đủ ngày, đủ tháng, đủ năm (căn cứ vào ngày tháng năm sinh) nên bạn có thể tự xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của em bạn.

    - Tội trộm cắp tài sản:

    Khoản 1 Điều 138 quy định: 

    "Điều 138.  Tội trộm cắp tài sản 

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. "

    Nếu giá trị chiếc xe đạp mà em bạn trộm cắp dưới 2 triệu đồng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý về hành chính.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/07/2013, 09:58:25 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào anh,

    Với những thông tin anh cung cấp tôi trả lời anh như sau:

    - Về trách nhiệm hình sự: 

    Việc cơ quan công an cung cấp thông tin về 25 người làm chứng chỉ và vợ anh xác nhận việc đó thì việc xác nhận vào văn bản này là bằng chứng chứng minh vợ anh có thực hiện việc giúp 25 người kia mua chứng chỉ. 

    Nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì vợ anh là đồng phạm với những người kia với tư cách là người giúp sức. 

    Điều 268 Bộ luật hình sự quy định: 

    "Điều 268. Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội 

    1. Người nào chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ trái phép con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội không thuộc tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ  ba tháng đến  hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một  năm đến  năm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

    - Về áp dụng án treo:

    Cần phải đáp ứng các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự: 

    "1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm."

    Để có thể tư vấn giúp anh chị giải quyết vấn đề thì anh chị vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/07/2013, 09:31:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Với những thông tin bạn cung cấp, trong trường hợp của bạn tôi trả lời như sau:

    Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau: 

    "Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

    1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

    2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

    Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.

    3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.

    Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.

    4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố."

    Theo nội dung điều khoản trên thì trong vòng 20 ngày hoặc không quá 60 ngày (vụ việc phức tạp) kể từ ngày nhận được tin báo, tin tố giác tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố thì cơ quan điều tra có thẩm quyền phải kiểm tra, xác minh và ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. 

    Sự việc của bạn xảy ra được gần 10 ngày, như vậy vẫn đang trong thời hạn thực hiện việc kiểm tra, xác minh của cơ quan điều tra có thẩm quyền. Nếu hết thời hạn nêu trên mà bạn không nhận được quyết định gì của cơ quan điều tra bạn có thể gửi đơn thư yêu cầu tới cơ quan điều tra có thẩm quyền, viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp để yêu cầu giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật.

    Thông thường việc nhận đơn phải có xác nhận về việc đã nhận đơn (ghi sổ, giấy xác nhận ...). Bạn có thể trực tiếp yêu cầu cơ quan công an nơi bạn trình báo xác nhận về việc đã nhận đơn trình báo của bạn bằng văn bản hoặc bạn gửi đơn trình báo qua đường bưu điện (giữ lại biên lai ghi nhận việc gửi đơn) làm căn cứ cho việc gửi đơn trình báo của bạn để bạn tính thời hạn. 

    Trân trọng!

     

  • Xem thêm     

    26/07/2013, 09:01:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Ls.Nguyenthihuong
    Ls.Nguyenthihuong
    Top 500
    Female
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/05/2013
    Tổng số bài viết (280)
    Số điểm: 1494
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 105 lần
    Lawyer

    Chào bạn,

    Điều 14 luật Giao thông đường bộ quy định về Vượt xe, nếu đáp ứng được các điều kiện đó thì được vượt. Pháp luật không quy định rõ khi "Vượt" xe thì khoảng cách là bao nhiều mà chỉ có quy định về khoảng cách an toàn giữa các xe khi tham gia giao thông tại Thông tư số 13/2009/TT-BGTVT ngày 17/07/2009.

    Trân trọng!

4 Trang <1234>