Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<29303132333435>»
  • Xem thêm     

    25/09/2013, 11:20:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

               Nếu em bạn đang tham gia một quan hệ pháp luật lao động: Là người lao động, làm việc và được trả lương theo hợp đồng lao động, quyết định bổ nhiệm, tuyển dụng... thiệt hại tính mạng của em bạn gắn liền với nhiệm vụ, công việc được giao thì sự việc đó có thể được coi là tai nạn nao động.

           Tai nạn lao động được định nghĩa tại điểm 2.1 của Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN của Liên tịch Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Cụ thể:

    a. Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (kể cả thời gian giải quyết các nhu cầu cần thiết trong thời gian làm việc theo Bộ Luật Lao động quy định như: nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc).

    b. Tai nạn được coi là tai nạn lao động trong các trường hợp sau:

    - Tai nạn xảy ra trên tuyến đường đi và về trực tiếp giữa nơi làm việc và:

    + Nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của người lao động.

    + Nơi người lao động đến nhận tiền lương, tiền công.

    - Tai nạn xảy do những nguyên nhân khách quan như: thiên tai, hoả hoạn và các trường hợp rủi ro khác gắn liền với việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ lao động hoặc không xác định được người gây ra tai nạn xảy ra tại nơi làm việc.

    Tất cả những trường hợp trên phải được thực hiện ở địa điểm và thời gian hợp lý.

    c. Tai nạn lao động được chia thành 3 loại:

    + Tai nạn lao động chết người: là tai nạn lao động dẫn đến chết người (chết ngay tại nơi xảy ra tai nạn; chết trên đường đi cấp cứu; chết trong thời gian cấp cứu; chết trong thời gian đang điều trị; chết do tái phát của chính vết thương do tai nạn lao động gây ra, …).

    + Tai nạn lao động nặng: người bị tai nạn bị ít nhất một trong những chấn thương được quy định tại Phụ lục số 1 kèm theo Thông tư này.

    + Tai nạn lao động nhẹ: là những tai nạn lao động không thuộc 2 loại tai nạn lao động nói trên.

  • Xem thêm     

    24/09/2013, 11:47:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Nếu người đó nói là mượn xe của bạn để sử dụng nhưng lại mang đi cầm cố làm mất khả năng lấy lại chiếc xe đó... (dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn) thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS.

    - Nếu ban đầu việc mượn, sử dụng xe là đúng, bị công an giữ xe là đúng sự thật. Sau đó họ mượn tiếp xe của bạn để mang đi cầm cố và bạn cũng đồng ý thì đó chỉ là giao dịch dân sự. Trong trường hợp này nếu người đó "gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản" của bạn thì mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

    - Để giải quyết vụ việc đó thì bạn có thể gửi đơn tố giác tội phạm tới công an nơi mà bạn đã giao xe cho người đó để được giải quyết theo pháp luật. Trong đơn cần trình bày rõ nội dung, tình tiết của sự việc để cơ quan điều tra xem xét, giải quyết.

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 04:07:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu cháu bạn lạng lách, đánh võng, làm "động tác giả" khiến người đi ngược chiều "chóng mặt" mà đâm phải cháu bạn thì cháu bạn là người có lỗi chính... Việc xác định lỗi chính, lỗi phụ còn căn cứ vào điểm va chạm, tư thế ngã, dấu vết vật chứng và sơ đồ hiện trường...

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 07:07:42 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư đã trả lời

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 07:05:58 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo thông tin bạn nêu thì cả hai bên đều sai. Nếu bên nào có lỗi chính, dẫn đến vụ tai nạn thì bên đó phải chịu trách nhiệm chính. Việc bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên.

  • Xem thêm     

    16/09/2013, 09:49:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Bạn cần xem lại hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp. Nếu hai hợp đồng đó vô hiệu thì bạn mới có cơ hội thoát nợ. Nếu hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp có hiệu lực thì việc trả nợ chỉ còn là thời gian và cách thức trả nợ.

    Bạn cần phối hợp với em bạn để trả nợ hoặc làm việc với ngân hàng để thỏa thuận giãn nợ.

  • Xem thêm     

    15/09/2013, 05:36:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Với án phạt tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật thì phải chờ quyết định thi hành án của cơ quan công an. Nếu thấy đợi lâu quá thì bị cáo có thể làm đơn yêu cầu được sớm chấp hành án gửi tới cơ quan thì hành án hình sự để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 10:10:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Sự việc của bạn bạn nêu trên là quan hệ dân sự (hợp đồng vay tiền), mức lãi suất như vậy là lãi suất cao. Tuy nhiên, bạn của bạn vẫn phải chịu trách nhiệm với số tiền gốc và lãi suất theo quy định pháp luật, phải chịu trách nhiệm tới việc làm của mình. Nếu hiện nay bạn đó chưa có khả năng trả nợ thì có thể khất nợ, giãn nợ để dung hòa mâu thuẫn với chủ nợ.

    Đối với việc kinh doanh, gặp đổ vỡ thất bại là chuyện bình thường. Kinh doanh lần đầu với tuổi trẻ như vậy không thất bại mới là lạ. Vì vậy bạn nên động viên, giúp đỡ bạn của mình để sớm vượt qua thất bại đầu đời đó.

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 09:24:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu em bạn đồng ý thì bạn có thể nhận tài sản của em bạn để thế chấp, đảm bảo cho khoản nợ đó... Tuy nhiên, nếu em bạn tiếp tục kinh doanh để có thu nhập trả nợ cho bạn thì bạn cũng nên nhượng bộ để tạo cơ hội cho em bạn trả nợ.

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 09:11:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo quy định của pháp luật thì với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu như ô tô, xe máy.., thì việc mua bán bắt buộc phải lập hợp đồng, có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký sang tên thì mới hợp pháp. Anh bạn mua bán viết tay thì không có giá trị pháp lý. Nếu có tranh chấp thì tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và buộc anh bạn phải trả lại tiền cho người mua (thông thường hình thức mua bán này là giả tạo nhằm để che giấu việc vay mượn tín dụng đen...)

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 10:15:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!


    - Chủ tịch UBND huyện không có thẩm quyền chỉ đạo công an huyện điều tra, làm rõ vụ việc.

    - Nếu kết quả trả lời tin báo, tố giác tội phạm là sự việc không/chưa có dấu hiệu tội phạm và người dân không đồng ý với kết quả trả lời tin báo đó thì có quyền gửi đơn tới Thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc VKSND cùng cấp để khiếu nại theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

    - Nội dung đơn cần trình bày rõ nội dung sự việc, các căn cứ cho rằng có dấu hiệu tội phạm và yêu cầu khởi tố vụ án.

  • Xem thêm     

    03/09/2013, 09:37:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Trách nhiệm hình sự:

    Theo thông tin bạn nêu thì các đối tượng trên sẽ bị khởi tố về các tội danh: Giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự, Tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 Bộ luật hình sự (nếu không bị khởi tố về tội giết người) và tội gây rối trật tự công công theo quy định tại Điều 245 Bộ luật hình sự (trường hợp đối tượng nào không bị xử lý về một trong hai tội danh trên). Trong các tội danh trên thì khung hình phạt cao nhất là tử hình.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    "Điều 93. Tội giết người

     

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
      a) Giết nhiều người;
      b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
      c) Giết trẻ em;
      d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
      đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
      g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
      h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
      i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
      k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
      l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
      m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
      n) Có tính chất côn đồ;
      o) Có tổ chức;
      p) Tái phạm nguy hiểm;
      q) Vì động cơ đê hèn.
    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

     

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
      a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
      b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
      c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
      d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
      đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Có tổ chức;
      g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
      h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
      i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
      k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng

     

    1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;
      b) Có tổ chức;
      c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
      d) Xúi giục người khác gây rối;
      ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
      e) Tái phạm nguy hiểm."

    2. Trách nhiệm dân sự:

    Các đối tượng trên sẽ phải bồi thường thiệt hại như sau: Tiền chi phí cứu chữa, tiền mai táng, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần... Bạn tham khảo quy định sau đây của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao:
     

    "2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

     

     

    2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

    2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

    2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

    a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

    Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

    b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

    - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

    - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

    - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

    a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

    b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

    c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại...

    d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường."

  • Xem thêm     

    03/09/2013, 09:27:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của bạn chỉ là giao dịch dân sự. Nếu một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    - Nếu em bạn không trả tiền cho ngân hàng, bạn cũng không trả tiền theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ khởi kiện và yêu cầu phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Đồng thời, bạn cũng có quyền khởi kiện để yêu cầu em bạn phải trả lại tiền cho bạn.

    - Nếu em bạn sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng hoàn trả hoặc gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền vay thì mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, việc chứng minh giao dịch dân sự chuyển hóa thành tội phạm hình sự theo quy định tại điều luật trên là không dễ.

  • Xem thêm     

    02/09/2013, 03:58:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Với trường hợp như vậy thì gia đình bạn cần là đơn trình báo sự việc để được công an địa phương giải quyết. Tùy vào tính chất mức độ sự việc và hành vi cụ thể mà đối tượng sẽ bị xử lý theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    02/09/2013, 09:47:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

             Gia đình bạn có thể gửi đơn trình báo với công an để được can thiệp kịp thời. Nếu người đó đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì sẽ bị xử lý hình sự. Nếu có căn cứ xác định người đó nghiện ma túy thì còn bị bắc buộc cai nghiện.

  • Xem thêm     

    01/09/2013, 10:49:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
              Với thông tin bạn nêu thì chưa thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Nếu anh bạn người Nhật muốn đòi lại số tiền đã đưa cho cô "người yêu cũ" kia thì chỉ có cách là khởi kiện tới Tòa án nơi cô bạn gái đó cư trú để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu khởi kiện nếu anh bạn đó có đầy đủ chứng cứ chứng minh có việc gửi tiền cho cô gái "giữ hộ" còn nếu là " tiền cho gái"... thì không đòi lại được.

  • Xem thêm     

    01/09/2013, 08:09:18 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ luật hình sự quy định:

    "Điều 20. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.".

              Do vậy, việc ký nháy hay không ký nháy không phải là căn cứ để xác định bạn có tội hay không có tội. Nếu ban biết việc vẽ sai vị trí thửa đất như vậy nhằm phục vụ cho việc trốn thuế của người sử dụng đất mà bạn vẫn làm (theo chỉ đạo hoặc được ăn chia..) thì bạn sẽ phạm tội với vai trò đồng phạm.

             Nếu bạn vẽ sai là do nghiệp vụ, không có mục đích tư lợi, không giúp sức cho việc trốn thuế thì bạn mới không phạm tội. Chữ ký của bạn chỉ là chứng cứ chứng minh bạn có biết, có tham gia vào quy trình thực hiện thủ tục hành chính chứ không phải là căn cứ kết tội. Muốn chứng minh được bạn phạm tội thì cơ quan điều tra phải chứng minh được động cơ, mục đích chữ ký của bạn ở đó...

  • Xem thêm     

    31/08/2013, 08:37:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu với "giấy trắng, mực đen" như thế thì bạn sẽ bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 2, Điều 139 Bộ luật hình sự.

    Nếu bạn có được chứng cứ khác chứng minh sự việc trên chỉ là việc vay tiền chứ không phải là mua bán... thì vụ việc chỉ là giao dịch dân sự.

    Do vậy, bạn cần chuẩn bị các chứng cứ (ghi âm, tin nhắn..) để bảo vệ mình trước vòng lao lý.

  • Xem thêm     

    29/08/2013, 10:34:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư đã trả lời: http://danluat.thuvienphapluat.vn

  • Xem thêm     

    29/08/2013, 10:30:09 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Người gây tai nạn đã chết nên nếu người đó có tài sản thì người thừa kế của người đó phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong phạm vi di sản để lại (nếu có);

    - Nếu người ngồi sau phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì người đại diện theo pháp luật cho người mất trí đó sẽ thay mặt họ giải quyết vấn đề về trách nhiệm dân sự.

              Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

    "Ðiều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

    1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

    3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

    Ðiều 606. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân

    1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

    2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Ðiều 621 của Bộ luật này.

    Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

    3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

    Ðiều 607. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

    Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.
    Ðiều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại."

69 Trang «<29303132333435>»