Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

4 Trang <1234>
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 05:04:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Vấn đề của bạn là nội dung đang gây tranh cãi và thực tiễn, Tòa án có hai quan điểm giải quyết khác nhau:

    -                     Quan điểm thứ nhất: Căn cứ vào BLLĐ và thỏa thuận trong Hợp đồng lao động, Thỏa ước lao động tập thể để bảo vệ quyền lợi cho công ty nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn;

    -                     Quan điểm thứ 2: là viện dẫn Nghị định 44 và Thông tư số 21 năm 2003 để cho phép bạn chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường. Coi đây là quy định hướng dẫn luật chứ không trái luật.
            Thông thường Tòa án áp dụng quan điểm 1 để giải quyết nếu thời gian thỏa thuận làm việc sau đào tạo khoảng 3, 4 năm trở lại, đồng thời Công ty vẫn tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng lao động và chế độ đối với người đã được đào tạo tốt hơn trước và tốt hơn những lao động không được đào tạo.

    Nếu thỏa thuận thời gian làm việc sau hợp đồng khoảng 5, 6 năm trở lên đồng thời chế độ đãi ngộ của Công ty sau khi đào tạo không hợp lý gây thiệt hại cho người lao động (chế độ và thu nhập không hơn lao động không được đào tạo) thì Tòa án sẽ áp dụng quan điểm thứ 2 để cho phép người lao động chấm dứt hợp đồng lao động.
              Theo tôi thì đó cũng là một cách giải quyết linh động và hợp lý bởi nếu cứ áp dụng một số quy định của Nghị định 44 và Thông tư 21 trong mọi trường hợp thì NSDLĐ sẽ KHÔNG DÁM cho người lao động đi đào tạo nữa. Bởi chi phí đào tạo không phải là ít, nếu sau khi được đào tạo NSDLĐ chỉ cần thông báo trước 30 hoặc 45 ngày là có quyền chấm dứt hợp đồng, rũ bỏ trách nhiệm sau khi đào tạo và không phải bồi thường chi phí đào tạo thì sẽ không hợp lý và doanh nghiệp sẽ thiệt hại rất lớn  NLĐ cũng sẽ nghỉ việc hàng loạt mà không tuân theo cam kết về thời gian làm việc  sau đào tạo ghi trong hợp đồng lao động…

    Do vậy, bạn nên cân nhắc trước khi quyết định bởi với tình huống của bạn thì mọi việc đều có thể xảy ra.

  • Xem thêm     

    22/10/2011, 10:36:48 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Luật sư nhât trí với ý kiến của bạn!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 09:46:54 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn! Lý do cho nghỉ việc là thu hẹp sản xuất theo Điều 17 BLLĐ chứ không phải do người lao động có thai. Do vậy, trong trường hợp này Công ty không thể vi phạm khoản 3, Điều 111 BLLD được.
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 06:47:33 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

              Điều 17 Bộ luật Lao động quy định: Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương.

             Khi cần cho nhiều người thôi việc, người sử dụng lao động phải công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp và thâm niên làm việc tại doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của từng người để lần lượt cho thôi việc, sau khi đã trao đổi, nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp theo thủ tục quy định. Việc cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi đã báo cho cơ quan lao động địa phương biết.

             Khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động quy định: Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

             Sau 30 ngày kể từ ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.

             Như vậy, Công tuy bạn phải báo cho cơ quan lao động địa phương biết trước khi cho bạn thôi việc theo quy định tại Điều 17 BLLĐ và phải trao đổi với ban chấp hành công đoàn cơ sở. Việc trao đổi với ban chấp hành cơ sở không bắt buộc phải có người lao động tham gia.

             Nếu Công ty cho bạn nghỉ nhưng lại tuyển thêm lao động mới vào làm việc thì không thể cho là thu hẹp sản xuất được. Họ phải chứng minh là công ty giảm quy mô sản xuất, giảm nhân công, cơ cấu lại tổ chức thì mới đủ căn cứ xác định là thu hẹp sản xuất.

              Với những thông tin bạn nêu ra thì nhiều khả năng công ty đã chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với bạn. Bạn có quyền khiếu kiện theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    20/10/2011, 05:08:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu quyết định cho thôi việc ghi lý do cho thôi việc là: "Người lao động có thai" thì họ mới vi phạm khoản 3, Điều 111 BLLĐ. Còn ở đây họ lý do là thu hẹp sản xuất cơ mà!
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 10:21:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    luật sư đã trả lời
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 10:21:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 38 BLLĐ thì nếu có lý do bất khả kháng dẫn đến thu hẹp sản suất thì NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải có sự trao đổi, nhất trí của Ban chấp hành công đoàn cơ sở theo quy định tại khoản 2, điều này.

    Lý do chấm dứt hợp đồng lao động phải được ghi rõ trong thông báo và Quyết định cho thôi việc nhưng không được ghi vào Sổ lao động. Nếu lý do chấm dứt HĐLĐ là do bạn có thai thì mới trái pháp luật (Điều 111 BLLĐ);

    Thời gian báo trước để chấm dứt hợp đồng lao động là 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với HĐ không xác định thời hạn (Điều 38).

    Bạn có quyền yêu cầu công ty chốt sổ bảo hiểm và thanh toán các khoản tiền trợ cấp cho bạn. Công ty có trách nhiệm trả sổ BH, sổ lao động cho bạn.

    Nếu bạn thấy việc công ty chấm dứt hợp đồng lao động không đúng pháp luật thì có thể khởi kiện tranh chấp lao động đến tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

     
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 08:49:12 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bác!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bác như sau:
             Theo quy định tại thông tư 32/2010/TT-BLĐTBXH, ngày 25/10/2010, của Bộ LĐ-TB&XH, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, ngày 12/12/2008, của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN, như sau:

    "a) Mức trợ cấp thất nghiệp (TCTN) hằng tháng: Bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.
             Trường hợp những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, người lao động (NLĐ) có thời gian gián đoạn đóng BHTN thì 06 tháng liền kề để tính mức TCTN là bình quân của 6 tháng đóng BHTN trước khi NLĐ mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.

             Thời gian hưởng TCTN: 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến dưới 36 tháng đóng BHTN (áp dụng đối với trường hợp của chị); 06 tháng, nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 09 tháng, nếu có từ đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng, nếu có từ đủ 144 tháng đóng BHTN trở lên."

              Như vậy, nếu bác đã tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên thì bác mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp như nội dung đã nêu ở trên. Nếu thời gian đóng BHTN chưa đủ 12 tháng thì bác có thể chốt thời gian đóng bảo hiểm TN ở công ty cũ và đóng tiếp theo ở nơi làm việc mới để đủ thời gian hưởng trợ cấp theo quy định.
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 07:24:39 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                 Bạn nói đúng, Điều đó được quy định tại khoản 1, Điều 41 của BLLĐ. Nếu thời gian bị đơn phương chấm dứt càng dài thì NLĐ càng được bồi thường nhiều tiền lương + phụ cấp + bồi thường (tính tứ lúc bị đơn phương đến khi Tòa án xét xử).
                Nhiều công ty không biết được điều đó nên bất chấp pháp luật, có những NSDLĐ biết điều đó nhưng nắm được tâm lý NLĐ là "ngại kiện" nên cứ làm liều. ..
               Hơn nữa có nhiều công ty còn dùng "thủ đoạn" với LLĐ để chấm dứt HĐLĐ với họ như: Buộc thôi việc nhưng không ra Quyết định cho thôi việc, NLĐ không biết, cứ nghỉ ở nhà thế là sau 5 ngày họ ra QĐ sa thải
    theo quy định tại Điều 85 BLLĐ với lý do nghỉ quá 5 ngày trên 1 tháng. Thế là từ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thành đúng pháp luật! Có những trường hợp NLĐ biết họ dùng "chiêu" đó nên cứ đến công ty làm việc nhưng họ cho bảo vệ đuổi ra, không cho vào để chờ quá 5 ngày thì ra QĐ. Ngoài ra còn nhiều "thủ đoạn" khác mà NLĐ không thể "trở tay" kịp. Khi tranh chấp xảy ra, họ không có đủ chứng cứ để bảo vệ mình.
               Nói chung quan hệ lao động là quan hệ tương đối phức tạp, luôn luôn chứa đựng mâu thuẫn về lợi ích. Quan hệ đó có thể bị đổ vỡ bất cứ lúc nào nếu lợi ích không được điều chỉnh hài hòa. Theo quy định pháp luật thì đó là quan hệ bình đẳng nhưng thực tế thì không hề bình đẳng. Người lao động không biết hết các quyền lợi của mình hoặc có biết cũng khó mà thực hiện được quyền lợi bởi  nhiều lý do khác nhau như: Công đoàn là do NSDLĐ trả lương nên ít khi họ "vô tư" thực hiện công việc theo quy định; NSĐLĐ quản lý hồ sơ, giấy tờ;
    NLĐ không có tiềm lực kinh tế...
               Tóm lại muốn được bảo vệ mình thì NLĐ phải nâng cao nhận thức pháp luật nói chung và về Luật lao động nói riêng; Phải biết đoàn kết để đòi hỏi quyền lợi của mình theo luật định;  Phải biết tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của Liên đoàn lao động và trợ giúp pháp lý của Luật sư.
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 06:45:02 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Bạn xem lại khoản 3, Điều 41 Bộ luật lao động:

    Theo quy định tại khoản 3, Điều 41 BLLD 1994 và khoản 3, Điều 41 BLLĐ sửa đổi năm 2002 thì đều quy định: "Trong tr­ường hợp người lao động đơn phư­ơng chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thư­ờng chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ."

    Như vậy luật không quy định là "đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì mới phải bồi thường chi phí đào tạo" mà quy định rõ là cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (không phân biệt đúng sai) đều phải bồi thường chi phí đào tạo. Còn nếu chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì vừa phải bồi thường chi phí đào tạo vừa không được hưởng trợ cấp thôi việc.
  • Xem thêm     

    18/10/2011, 10:24:52 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
               Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    Điều 85 Bộ luật lao động quy định về sa thải như sau:

    "1 - Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

    a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;

    b) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm;

    c) Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.

    2 - Sau khi sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương biết".
               Như vậy nếu việc đình công đó trái pháp luật thì mới có thể xác định là "không có lý do chính đáng" và có thể xử lý theo quy định tại điểm c, khoản1 Điều 85 BLLĐ. Còn nếu việc đình công đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật lao động sửa đổi năm 2006 thì Công ty bạn không có quyền kỷ luật lao động họ.

              Theo quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động năm 2006, một cuộc đình công được xác định là hợp pháp phải bảo đảm đầy đủ các yếu tố sau:

    1.  Cuộc đình công phải xuất phát từ tranh chấp lao động tập thể. Tranh chấp lao động tập thể bao gồm tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Theo đó, tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử dụng lao động vi phạm. Còn tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp về việc tập thể lao động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.

    2.  Tranh chấp lao động tập thể đó đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng tập thể người lao động không đồng ý với phương án mà các cơ quan có thẩm quyền đưa ra trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hoặc trong thời gian quy định mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp không tiến hành giải quyết tranh chấp, thì tập thể người lao động cũng có quyền tổ chức đình công.

    3.  Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện người lao động phải tổ chức lấy ý kiến về cuộc đình công theo quy định sau: Đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có dưới ba trăm người lao động thì lấy ý kiến trực tiếp của người lao động; đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có từ ba trăm người lao động trở lên thì lấy ý kiến của thành viên Ban chấp hành công đoàn cơ sở, Tổ trưởng tổ công đoàn và Tổ trưởng tổ sản xuất; trường hợp không có công đoàn cơ sở thì lấy ý kiến của Tổ trưởng, Tổ phó tổ sản xuất. Sau đó, Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể lao động ra quyết định đình công bằng văn bản và lập bản yêu cầu khi có ý kiến đồng ý của trên 50% tổng số người lao động đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có dưới ba trăm người lao động hoặc trên 75% số người được lấy ý kiến đối với doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có từ ba trăm người lao động trở lên.

    4.  Đình công phải do Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời tổ chức và lãnh đạo. Đối với doanh nghiệp chưa có Ban chấp hành công đoàn cơ sở thì việc tổ chức và lãnh đạo đình công phải do đại diện được tập thể lao động cử và việc cử này đã được thông báo với công đoàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc tương đương.

    5.  Doanh nghiệp nơi người lao động đình công không thuộc danh mục doanh nghiệp không được đình công theo quy định của Chính phủ. Đối với những doanh nghiệp thuộc danh mục doanh nghiệp không được đình công cho dù là đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về đình công thì cuộc đình công đó vẫn được xác định là bất hợp pháp.

    6.  Cuộc đình công phải do người lao động trong cùng một doanh nghiệp hoặc cùng một bộ phận doanh nghiệp tiến hành. Trường hợp người lao động ở các doanh nghiệp khác nhau tổ chức đình công thì cuộc đình công này được xác định là bất hợp pháp.

    7.  Cuộc đình công đó không bị hoãn hoặc ngừng đình công theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

  • Xem thêm     

    17/10/2011, 12:39:22 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Khoản 3 Điều 42 BLLĐ quy định:  Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ.
            Như vậy, căn cứ vào quy định pháp luật trên thì bạn phải bồi thường tiền phí đào tạo nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Mức bồi thường là toàn bộ khoản chi phí mà công ty đã bỏ ra chứ không phải là 7/36. Do vậy bạn nên cân nhắc trước khi quyết định. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể thỏa thuận với Công ty về mức lương để tăng lương hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn.
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 06:28:24 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
     1. Theo quy định tại khoản 1, Điều 42 BLLĐ thì tiền trợ cấp thôi việc của bạn được tính như sau: Mỗi năm làm việc bạn sẽ được 1/2 tháng lương và phụ cấp;
     2. Thời gian tính thôi việc là thời gian bạn nhận được quyết định cho thôi việc của công ty;
     3. Bảo hộ lao động thì Công ty phải trang bị còn đồng phục thì theo quy định của công ty. Thông thường nếu NLĐ thôi việc thì Công ty lấy lại đồng phục và trả lại tiền cho NLĐ.
  • Xem thêm     

    14/10/2011, 04:41:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 10:27:17 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Điều 141 Bộ luật lao động sửa đổi năm 2002 quy định như sau:

     "1. Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc đ­ược áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn. ở những doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức này, ngư­ời sử dụng lao động, ng­ười lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 149 của Bộ luật này và ng­ời lao động đư­ợc hư­ởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, h­ưu trí và tử tuất.

       2. Đối với ngư­ời lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dư­ới ba tháng thì các khoản bảo hiểm xã hội đư­ợc tính vào tiền l­ương do ngư­ời sử dụng lao động trả theo quy định của Chính phủ, để ng­ười lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm. Khi hết hạn hợp đồng lao động mà ngư­ời lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới, thì áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều này."

    Như vậy, nếu người lao động làm việc cho DN của bạn là loại lao động thời vụ dưới 3 tháng thì tiền bảo hiểm được tính vào tiền lương để NLĐ tự đóng bảo hiểm tự nguyện. Nếu hết thời hạn hợp đồng lao động mùa vụ mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc ký tiếp hợp đồng mới thì DN của bạn phải đóng bảo hiểm cho NLĐ theo quy định.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    13/10/2011, 09:49:04 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời bạn như sau:

    1.                 Thẩm quyền của Tòa án: Chị bạn có thể khởi kiện vụ án tranh chấp Hợp đồng lao động tại nơi chị bạn có hộ khẩu thường trú (TAND quận Ba Đình) theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 36, Bộ luật tố tụng dân sự.

    2.                 Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 31 thì trường hợp tranh chấp hợp đồng lao động do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như của chị bạn thì không phải thông qua hòa giải cơ sở. Chị bạn có thể trực tiếp gửi đơn khởi kiện đến TAND quận Ba Đình để được giải quyết.

    3. Điều 41 Bộ luật lao động sửa đổi năm 2002 quy định về hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:

    1. Trong tr­ường hợp ng­ười sử dụng lao động đơn ph­ương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải nhận ngư­ời lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phải bồi th­ường một khoản tiền tư­ơng ứng với tiền lư­ơng và phụ cấp l­ương (nếu có) trong những ngày ngư­ời lao động không đ­ợc làm việc cộng với ít nhất hai tháng tiền l­ương và phụ cấp lương (nếu có).      

      Trong tr­ường hợp ng­ười lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được bồi thư­ờng quy định tại đoạn 1 khoản này, ngư­ời lao động còn đư­ợc trợ cấp theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật này.

    Trong trư­ờng hợp ng­ười sử dụng lao động không muốn nhận ngư­ời lao động trở lại làm việc và ng­ười lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền bồi thư­ờng quy định tại đoạn 1 khoản này và trợ cấp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thư­ờng thêm cho ng­ười lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

    2. Trong tr­ường hợp ng­ười lao động đơn phư­ơng chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không đư­ợc trợ cấp thôi việc và phải bồi th­ường cho ng­ười sử dụng lao động nửa tháng tiền l­ương và phụ cấp lư­ơng (nếu có).

    3. Trong tr­ường hợp ng­ười lao động đơn ph­ương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi th­ường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ.

    4. Trong trư­ờng hợp đơn phư­ơng chấm dứt hợp đồng lao động, nếu vi phạm quy định về thời hạn báo tr­ước, bên vi phạm phải bồi th­ường cho bên kia một khoản tiền tư­ơng ứng với tiền l­ương của ng­ười lao động trong những ngày không báo trư­ớc."

    Như vậy nếu chị bạn thắng kiện thì công ty phải trả chị bạn tiền lương và phụ cấp từ thời điểm cho chị bạn nghỉ việc trái pháp luật đến khi Tòa án xét xử. Ngoài ra còn phải bồi thường thêm ít nhất bằng 02 tháng tiền lương và phải nhận chị bạn quay lại làm việc. Nếu chị bạn không muốn tiếp tục làm việc thì có quyền chấm dứt hợp đồng và yêu cầu công ty thanh toán tiền trợ cấp thôi việc theo quy định pháp luật.

    Nếu yêu cầu khởi kiện của chị bạn không được chấp nhận thì chị bạn phải chịu tiền án phí theo mức án phí quy định tại Pháp lệnh lệ phí, án phí Tòa án năm 2009 mà tôi đã nêu ở trên.

    Nếu yêu cầu khởi kiện của chị bạn được chấp nhận thì Công ty phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

    Nếu bạn cần Luật sư tư vấn theo toàn bộ vụ việc hoặc Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị bạn tại Tòa án thì hãy liên hệ trực tiếp với tôi để được trợ giúp.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    12/10/2011, 12:32:06 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn
              Thực ra trong các vụ án tranh chấp lao động thì chủ yếu là Người lao động kiện Người sử dụng lao động. Yêu cầu của họ là bồi thường thiệt hại, đòi tiền lương, tiền trợ cấp, yêu cầu nhận lại làm việc...
              Thực tế, chỉ có hai trường hợp hay đi khởi kiện là: Thiệt hại về tài sản của người lao động lớn nên kiện để đòi quyền lợi. Trường hợp thứ hai là kiện để đòi sự công bằng (quyền lợi về tài sản không lớn, thậm chí chỉ vài triệu đồng họ cũng kiện).
             Nếu trường hợp của chị bạn thuộc một trong hai trường hợp trên thì hãy nên khởi kiện. Bởi theo kiện là mất thời gian, chi phí, công sức... Nếu tính về lợi ích thì "thời gian, chi phí, công sức" theo kiện mình bỏ ra làm việc khác sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn. Còn nếu muốn "dạy" cho họ một bài học thì hãy kiện. Còn tâm lý chung của DN là "sợ" tranh chấp, kiện tụng vì ảnh hưởng đến uy tín, mất thời gian. Nhiều trường hợp sau khi Tòa án thụ lý thì hai bên hòa giải được với nhau do vậy kiện cũng là một cách tạo áp lực trong đàm phán.
    Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp lao động có giá ngạch được quy định như sau:

     

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    Giá trị tranh chấp

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    Mức án phí

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    a) Từ 4.000.000 đồng trở xuống

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    200.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    3% của giá trị tranh chấp, nhưng không dưới 200.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    12.000.000 đồng + 2% của phần giá trị có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    d) Từ trên 2.000.000.000 đồng

    #0000ff; padding: 0pt 5.4pt;" class="TableNormal-C">

    44.000.000 đồng + 0,1% của phần
    giá trị có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng



              Nếu nguyên đơn thua kiện thì phải chịu án phí, thắng kiện thì bị đơn chịu án phí.
              Còn chi phí thuê Luật sư thì tùy từng luật sư và tùy theo yêu cầu của bạn. Bản chất thù lao luật sư là công sức của Ls bỏ ra khi thực hiện dịch vụ pháp lý do vậy nếu bạn muốn tiết khiệm chi phí thì có thể chỉ nhờ Ls tư vấn pl và soạn thảo văn bản để bạn tự tham gia tranh tụng hoặc chỉ nhờ Ls tham gia tại phiên tòa; mức cao nhất là bạn ủy quyền cho Ls thực hiện toàn bộ công việc, bạn không cần tham gia bất cứ một công đoạn nào. Mỗi một hình thức đó thì thù lao Ls lại khác nhau., đối với mỗi Ls thì thù lao lại khác nhau phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm và khả năng hoàn thành công việc cụ thể... Do vậy, nếu chị bạn muốn khởi kiện thì hãy liên hệ với Ls trên địa bàn để yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý và tiện cho công việc.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    12/10/2011, 06:26:43 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
             Theo các thông tin mà bạn nêu ra thì có nhiều biểu hiện sai phạm của Công ty. Chị bạn có quyền khởi kiện một vụ án lao động để buộc công ty phải nhận lại làm việc và phải thanh toán tiền lương trong thời gian chị bạn buộc thôi việc.
             Tuy nhiên, chị bạn có nghĩa vụ chuẩn bị và cung cấp chứng cứ cho yêu cầu khởi kiện của mình. Thông thường việc cung cấp chứng cứ của người lao động sẽ gặp nhiều khó khăn hơn người SDLĐ.
             Nếu chị bạn không ký vào đơn xin thôi việc thì có thể yêu cầu giám định chữ ký để xác định có phải chữ ký của chị bạn hay không. Nếu không phải chị bạn ký đơn thì việc ra Quyết định cho thôi việc của công ty là trái pháp luật.
             Chị bạn cũng cần kiểm tra lại xem mình có vi phạm kỷ luật lao động khác đến mức có thể bị xử lý theo điều 85 BLLĐ không.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    11/10/2011, 04:34:30 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Thống nhất ý kiến!
  • Xem thêm     

    10/10/2011, 04:48:36 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo tôi trường hợp đặc biệt là doanh nghiệp gặp khăn về tài chính mà không thể kiểm sóat được hoặc các trường hợp khác như bộ máy cơ cấu tổ chức trục trặc... thiên tai, hỏa hoạn, thay đổi của pháp luật... miễn là doanh nghiệp không hoạt động được bình thường thì có thể gọi là ĐẶC BIỆT rồi. Tuy nhiên, nếu họ không rơi vào trường hợp đặc biệt mà cứ tự cho mình là đang thuộc trường hợp đặc biệt thì xử lý thế nào? Tiền trợ cấp thôi việc của NLD là số tiền không lớn nên thực tế ít ai đưa ra Tòa để giải quyết đòi tiền TCTV. Còn nếu khi Tòa án giải quyết thì phải tuân theo pháp luật, khi đó doanh nghiệp có trách nhiệm chứng minh là mình rơi vào trường hợp đặc biệt. Nếu không chứng minh được thì doanh nghiệp đó làm sai và NLĐ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn thiệt hại đáng bao nhiêu thì chắc bạn biết rồi! Thực tế có lẽ chưa diễn ra những vụ án lao động thế này bởi ít ai có thời gian để theo kiện!
4 Trang <1234>