Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    23/02/2014, 09:02:02 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    - Việc xác định loại đất trước tiên phải căn cứ vào sổ sách quản lý đất đai của địa phương, giấy tờ về quyền sử dụng đất. Nếu giấy tờ, sổ sách về quản lý đất đai không thể hiện rõ thì xác định loại đất căn cứ vào thực địa phù hợp với quy hoạch sử dụng đất. Do vậy, nếu giấy chứng nhận của gia đình bạn ghi không đúng loại đất thì gia đình bạn có thể yêu cầu UBND huyện đính chính lại giấy chứng nhận.

    - Nếu gia đình bạn không thể đính chính được loại đất là đất ở (bạn lưu ý quy định về hạn mức đất ở) và muốn chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn sang đất ở thì phải nộp 50% giá trị chênh lệch của tiền sử dụng đất giữa đất ở và đất vườn. Gia đình bạn liên hệ với UBND xã hoặc phòng TNMT huyện để được hướng dẫn thủ tục cụ thể.

  • Xem thêm     

    23/02/2014, 08:51:44 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu thửa đất của bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 50 Luật đất đai sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

    "Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp."

  • Xem thêm     

    22/02/2014, 09:08:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu em bạn có giấy "mời" nhưng không lên thì cán bộ điều tra phải tìm đến tận nơi để gặp gỡ, xác minh. Nếu không thể gặp được thì phải điều tra theo nguồn tin khác.

    Nếu có căn cứ xử lý hình sự thì có thể khởi tố, truy nã... Nếu không đủ căn cứ thì sẽ có văn bản trả lời đơn tố giác của nạn nhân về nội dung, kết quả xác minh...

  • Xem thêm     

    22/02/2014, 08:52:28 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Theo quy định pháp luật hiện hành thì việc tặng cho, nhận tặng cho tài sản giữa cha mẹ với con khi cha mẹ còn sống không làm mất quyền thừa kế của các con theo di chúc hoặc theo pháp luật.
    - Vì vậy, khi cha bạn qua đời không để lại di chúc thì bạn vẫn tiếp tục được hưởng thừa kế đối với di sản của cha bạn theo quy định pháp luật. Bạn có thể tham khảo thêm quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự.

  • Xem thêm     

    22/02/2014, 08:46:43 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Theo thông tin bạn nêu thì bên cho thuê nhà (chung cư) đã vi phạm hợp đồng (không bàn giao nhà đúng thời hạn..). Do vậy, theo quy định pháp luật thì bạn có thể căn cứ vào hợp đồng để yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng (nếu có).
    - Tuy nhiên, để đòi được tiền bồi thường, tiền phạt... của chủ căn hộ chung cư không dễ dàng. Nếu hai bên không thỏa thuận được thì bạn có thể kiện ra tòa để yêu cầu giải quyết theo pháp luật...

  • Xem thêm     

    20/02/2014, 08:33:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    - Nếu nhà đất là di sản do ông bà để lại, chưa chia và không có di chúc thì bố bạn cũng được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản đó. Bố bạn có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nếu ông bà bạn chết chưa quá 10 năm.

    - Nếu ông bà bạn đã có di chúc để lại cho chú bạn hoặc đã tặng cho sang tên chú bạn khi ông bà còn sống thì bố bạn không còn quyền thừa kế (di sản không còn).

  • Xem thêm     

    20/02/2014, 03:22:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            Nội dung bạn hỏi là tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án nơi có bất động sản đó. Trước khi tòa án giải quyết thì các đương sự gửi đơn tới UBND xã, phường để được hòa giải theo quy định pháp luật.

           Tuy nhiên, vụ việc của gia đình bạn chỉ được tòa án thụ lý giải quyết nếu ông bà bạn qua đời chưa quá 10 năm. Nếu ông bà bạn đã qua đời quá 10 năm thì hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế, tòa án sẽ không thụ lý giải quyết.

  • Xem thêm     

    20/02/2014, 02:51:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự thì thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin là 20 ngày, nếu sự việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 02 tháng. Việc cơ quan điều tra xác minh thông tin tội phạm 8 tháng vẫn chưa có kết quả là vi phạm quy định pháp luật nêu trên.
    - Theo quy định pháp luật hình sự thì "một người bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án". Luật cư trú còn quy định quyền tự do cư trú. Đến thời điểm này người thân của bạn không có bản án, quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền xác định người thân của bạn có tội hoặc bị hạn chế quyền cư trú, quyền công dân. Vì vậy, em bạn hoàn toàn có quyền tự do cư trú đi làm ăn, kinh doanh theo quy định pháp luật. Chứ không nhất thiết cứ phải ngồi nhà để chờ công an gọi...

  • Xem thêm     

    20/02/2014, 09:57:25 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

     Chào bạn!
    Hồ sơ tuyển dụng có ghi thời gian công tác, kinh nghiệm thì không vi phạm gì. Vụ việc xử lý thế nào còn phụ thuộc vào hành vi, hậu quả... diễn ra.

  • Xem thêm     

    19/02/2014, 11:10:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            Nếu bạn đơn phương ly hôn thì tòa án nơi chồng bạn đang cư trú sẽ là nơi có thẩm quyền giải quyết. Nếu thuận tình ly hôn thì hai vợ chồng có thể thỏa thuân một trong hai nơi mà vợ chồng đang cư trú để giải quyết. Việc kết hôn ở đâu, hộ khẩu ở đâu không phải là căn cứ xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án.

  • Xem thêm     

    19/02/2014, 10:56:48 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nếu uống rượu say rồi phá hoại tài sản của người khác mà tài sản bị thiệt hại trị giá từ 2 triệu đồng trở lên thì người phá hoại sẽ bị khởi tố về tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự, cụ thể hình phạt như sau:

    "Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản

    1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
      c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
      d) Để che giấu tội phạm khác;
      đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
      e) Tái phạm nguy hiểm.
      g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

     

              Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) quy định: “Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

    Khi uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích mạnh khác, người ta có thể lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, tức là trong tình trạng đó không tồn tại điều kiện chủ quan thực tế để có lỗi. Song xuất phát từ việc cho rằng, tình trạng không nhận thức và điều khiển hành vi ở người say chỉ là tạm thời, không phải là kết quả do những nguyên nhân ổn định, tiềm tàng từ chính bên trong chủ thể đưa lại như năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi tự nó sẽ được khôi phục vì trước đó họ là người bình thường. Do đó, buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện tội phạm trong tình trạng say rượu hay say do dùng chất kích thích mạnh khác là sự quy kết tội phạm khách quan, hợp pháp và còn có ý nghĩa tác động giáo dục mạnh mẽ không chỉ đối với người đó, mà còn đối với người khác: không được quá lạm dụng rượu hoặc chất kích thích để dẫn đến thực hiện tội phạm.


    BLHS không coi việc say do sử dụng rượu, bia quá nồng độ quy định hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác là tình tiết để giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Thậm chí đối với một số tội phạm, BLHS còn coi  đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (ví dụ: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ  (Điều 202), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 208); Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ  (Điều 212)...

  • Xem thêm     

    19/02/2014, 10:31:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Nếu dự án mà công ty bạn được phê duyệt có quy định là được phép chuyển nhượng nhà đất... thì công ty bạn được thực hiện theo dự án đó. Để chuyển nhượng thì bắt buộc phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thực hiện thủ tục. Nếu không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên chỉ thực hiện được thông qua hình thức đặt cọc. Việc ủy quyền, góp vốn... là hình thức "lách" nhiều rủi ro...

  • Xem thêm     

    18/02/2014, 06:44:50 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    - Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất trên là tài sản chung của ông bà bạn. Ông bạn đã chết không để lại di chúc nên phần di sản của ông bạn (giá trị 1/2) thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự (bố bạn và các anh, chị em của bố bạn). Do bố bạn chết trước ông nội bạn nên phần của bố bạn sẽ thuộc về anh chị em bạn (các con của bố bạn), trong đó có bạn theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự (thừa kế thế vị).
    - Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế là 10 năm kể từ ngày ông bạn qua đời. Nếu quá 10 năm mà không có tranh chấp thì hết thời hiệu khởi kiện. 
    - Đối với phần di sản của bà nội bạn do bà nội bạn có quyền quyết định. Nếu bà bạn mất năng lực hành vi dân sự thì việc quyết định đối với tài sản của bà bạn thuộc về người giám hộ của bà bạn theo quy định pháp luật về giám hộ (quản lý, sử dụng, định đoạt vì lợi ích của bà bạn). Nếu bà bạn qua đời mà vẫn chưa định đoạt tài sản đó thì di sản lại thuộc về các thừa kế theo quy định pháp luật nêu trên.
    - Nếu có tranh chấp về thừa kế khiến tòa án giải quyết mà gia đình bạn chứng minh bố bạn có phần tài sản trong khối tài sản chung của ông bà bạn thì tòa án sẽ trả phần đó về cho các thừa kế của bố bạn. Nếu người nào có công duy trì, tu tạo di sản cũng sẽ được trích phần công sức đó....

  • Xem thêm     

    18/02/2014, 03:09:24 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Bộ luật lao động có hiệu lực từ 01/5/2013 quy định: 

    "Điều 111. Nghỉ hằng năm

    1. Người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:

    a) 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;

    b) 14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao động chưa thành niên hoặc lao động là người khuyết tật;

    c) 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.

    2. Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động.

    3. Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.

    4. Khi nghỉ hằng năm, nếu người lao động đi bằng các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy mà số ngày đi đường cả đi và về trên 02 ngày thì từ ngày thứ 03 trở đi được tính thêm thời gian đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm và chỉ được tính cho 01 lần nghỉ trong năm."

  • Xem thêm     

    18/02/2014, 02:57:34 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
                 Nếu bạn biết rõ con chó đó là tài sản do phạm pháp mà có nhưng bạn vẫn mua thì bạn mới phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu bạn không biết rõ nguồn gốc con chó đó là tài sản phạm pháp thì không vi phạm pháp luật. Nếu muốn buộc tội bạn thì cơ quan điều tra phải có nghĩa vụ chứng minh: bạn biết con chó đó là tài sản trộm cắp... bạn tham khảo quy định pháp luật sau đây:

    "Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

    1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm .
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Có tính chất chuyên nghiệp ;
      c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;
      d) Thu lợi bất chính lớn;
      đ) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:
      a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;
      b) Thu lợi bất chính rất lớn.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;
      b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    "

  • Xem thêm     

    17/02/2014, 09:48:39 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Luật sư trả lời bạn như sau:

    - Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của bạn có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.

    - Tuy nhiên, chứng cứ pháp lý của bạn rất yếu, khó có căn cứ để đấu tranh với tên "lừa đảo chuyên nghiệp" đó. Nếu có nhiều người cùng gửi đơn tố giác và còn có những người làm chứng khác thì mới chứng minh được hành vi, thủ đoạn gian đối của kẻ đó nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại.

    - Bạn có thể gửi đơn tới công an để được xem xét giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/02/2014, 08:53:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải nộp số tiền là 2% giá trị hợp đồng thuế thu nhập cá nhân và 0,5% lệ phí trước bạ. Tổng thuế và phí phải nộp là 2,5% giá trị hợp đồng.

    Vì vậy, bạn cần xem lại giá trị chuyển nhượng ghi trong hợp đồng (không thấp hơn khung giá đất do nhà nước quy định. Nếu giá trị hợp đồng ghi thấp hơn khung giá nhà nước thì sẽ căn cứ vào giá trị quyền sử dụng đất do nhà nước quy định để tính mức thuế và lệ phí phải nộp).

  • Xem thêm     

    17/02/2014, 08:34:01 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    - "Một mất mười ngờ" nhưng "mười ngờ là 10 tội". Người ta mất của thì có quyền nghi ngờ (ai sẽ là hung thủ). Tuy nhiên, nghi ngờ đó chỉ là giả định. Nếu có căn cứ thì công an sẽ khởi tố vụ án. Nếu công an chưa khởi tố vụ án, chưa kết luận về vụ việc thì tin đồn kia chỉ là nghi ngờ...

    - Hiện nay công an chưa có kết luận về vụ việc thì người bị nghi ngờ không thể tố cáo về tội vu khống được. Nếu không có việc mất trộm mà dựng chuyện lên để vu không cho người khác nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người đó thì mới phạm tội vu khống.

  • Xem thêm     

    17/02/2014, 06:51:45 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
            -  Vụ việc của gia đình bạn là tranh chấp về mốc giới quyền sử dụng đất. Nếu hai bên không thể thương lượng, đàm phán được với nhau thì một trong hai bên có thể gửi đơn tới UBND cấp xã để được hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì có thể gửi đơn tới tòa án để được giải quyết theo tủ tục tố tụng dân sự.

             - Việc xác định phần đất tranh chấp thuộc về gia đình nào sẽ căn cứ vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất thể hiện trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hai bên và dựa vào hình thể, diện tích thửa đất trên bản đồ địa chính qua các thời kỳ.

  • Xem thêm     

    17/02/2014, 06:42:15 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần
    Lawyer

    Chào bạn!

    Vụ việc sẽ được giải quyết căn cứ vào kết quả giám định tỷ lệ thương tật. Nếu không giám định thương tật thì bố bạn chỉ bị xử lý hành chính.