Chiếm đoạt Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hay còn gọi là Sổ đỏ) có bị xử lý hay không? Người bị chiếm giữ có thể kiện vì tội Chiếm đoạt tài sản hay không? Nếu không thì người bị chiếm giữ Sổ đỏ cần phải làm gì? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này.
Sổ đỏ có phải là tài sản không?
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp.
(căn cứ tại khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013)
Bên cạnh đó, căn cứ Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
- Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
- Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Đồng thời, tại Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền tài sản như sau:
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Như vậy, quyền sử dụng đất là quyền tài sản (nằm trong khái niệm tài sản), còn GCN QSDĐ không được xem là tài sản mà chỉ là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác định quyền sử dụng đất. Hay nói cách khác là văn bản chứa đựng quyền sử dụng đất (quyền tài sản).
Chiếm đoạt Sổ đỏ của người khác có bị truy cứu TNHS?
Theo như phân tích trên, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản, vậy nên việc một người nào đó giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giữ tài sản của thuộc về họ nên sẽ không bị buộc Tội chiếm đoạt tài sản của người khác.
Tuy nhiên, do người chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người bị chiếm giữ nên sẽ bị hạn chế một số quyền như chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Khoản 10 Điều 12 Luật Đất đai 2013 nêu rõ hành vi cản trở, gây khó khăn đối với việc thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật thuộc một trong các hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.
Người bị chiếm giữ Sổ đỏ có thể kiện người chiếm giữ không?
Theo Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của TAND Tối cao, về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại GCN quyền sở hữu tài sản thì GCNQSDĐ không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì tòa không thụ lý giải quyết.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì “tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”.
Về vấn đề này, TAND Tối cao giải đáp:
Tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Mục 1 Phần I Công văn 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TAND Tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn: “GCNQSDĐ là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”.
Theo đó, GCNQSDĐ là quyết định hành chính, không phải là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn 141/TANDTC-KHXX xác định GCNQSDĐ không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, nếu có yêu cầu tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại GCNQSDĐ, chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì TAND sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 BLTTDS 2015.
Tham khảo: Hướng dẫn cấp lại Sổ đỏ do bị mất
Theo quy định tại Điều 77 Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, có quy định về cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng do bị mất, như sau:
- Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc bị mất Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn.
Tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải đăng tin mất Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương.
- Sau 30 ngày, kể từ ngày niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã đối với trường hợp của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoặc kể từ ngày đăng tin lần đầu trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương đối với trường hợp của tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người bị mất Giấy chứng nhận nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận.
- Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 37 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ký quyết định hủy Giấy chứng nhận bị mất, đồng thời ký cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người được cấp hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.
Bước 1: Hộ gia đình và cá nhân khai báo với Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc bị mất Giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Bước 2: Sau 30 ngày, kể từ ngày niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại, người bị mất nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận. Hồ sơ theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT bao gồm:
- Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo Mẫu số 10/ĐK;
Xem và tải Mẫu đơn đề nghị
https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/11/30/Mau-so-10-DK.doc
- Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc đã niêm yết thông báo mất giấy trong thời gian 15 ngày đối với hộ gia đình và cá nhân.
Bước 3: Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký quyết định hủy Giấy chứng nhận bị mất, đồng thời ký cấp lại Giấy chứng nhận; chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được cấp.
Xem bài viết liên quan: Hướng dẫn cách tra cứu sổ đỏ online tại nhà nhanh chóng
Sai lỗi chính tả trong Sổ đỏ, người dân có cần làm lại?
Hồ sơ đăng ký biến động đất đai khi giải quyết tranh chấp có cần sổ đỏ bản gốc không?
Thủ tục cấp đổi sổ đỏ theo diện tích thực tế