Tranh chấp đất đai

Chủ đề   RSS   
  • #95031 14/04/2011

    kienboyvn1010

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:07/09/2010
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 185
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Tranh chấp đất đai

    xin luật sư tư vấn giúp tôi trường  hợp sau:
    Năm 2007 tôi có mua 1 mảnh đất rẫy diện tích 2ha (chưa có GCNQSDĐ), khi mua bán có làm giấy tờ tay và có xác nhận của UBND xã là "đất không có tranh chấp"; đến tháng 2 năm 2011 tôi được biết có người đã bán mảnh rẫy của tôi, nguyên nhân là mảnh đất tôi mua người bán cho tôi có mua chung với 1 người nữa , nhưng khi bán cho tôi người đồng sở hữu kia không biết nên mới bán lại cho một người khác vào năm 2009, hiện tại người mua sau chưa có giấy tờ gì cả, chỉ có giấy sang tay giữa 2 bên. Người mua sau lại là người quen của tôi nên có ý muốn tôi nhường lại cho 1 phần diện tích, tôi thấy như vậy không thỏa đáng. Người bán đất cho tôi và người bán đất cho anh bạn tôi đang mâu thuẫn quyền lợi nên không chịu giải quyết và đều khẳn định mình đúng. Tôi chưa biết làm thế nào trong trường hợp này, nếu đưa ra luật pháp thì thế nào thưa luật sư. Xin trân trọng cảm ơn!
     
    8094 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #95037   14/04/2011

    luatsuchanh
    luatsuchanh
    Top 25
    Male
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:09/03/2011
    Tổng số bài viết (3106)
    Số điểm: 22429
    Cảm ơn: 296
    Được cảm ơn 1477 lần


    Chào bạn!
    Trường hợp của bạn do đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nếu không có các giấy tờ theo khoản 1,2 và 5 Điều 50 luật đất đai 2003 thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền (Theo khoản 2 Điều 136 Luật đất đai)
    Trường hợp của bạn do 02 người mua của 02 người đồng sử dụng đất và chưa được cấp giấy nên sẽ khá phức tạp. Bạn có lợi thế là 02 người mua lại quen biết nhau.
    Vì vậy, nên thỏa thuận giải quyết hay hơn.

    Giám đốc Công ty Luật TNHH DC Counsel (Luật Đức Chánh)

    - Trực thuộc đoàn Đoàn Luật sư Tp.Hồ Chí Minh

    Văn phòng: 194C Pasteur, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

    Điện thoại: (08) 66 540 777 - Email: luatsuchanh@gmail.com - luatsu@luatducchanh.vn

    Yahoo: luatsuchanh - Gtalk: luatsuchanh - Skype: luatsuchanh

    Website: https://dccounsel.vn

    Link tham khảo: http://bit.ly/CtyNuocNgoai - http://bit.ly/KetHonNNgoai - http://bit.ly/PhaplyKhoiNghiep - http://bit.ly/TlapTNHH -

     
    Báo quản trị |  
  • #95044   14/04/2011

    Im_lawyerx0
    Im_lawyerx0
    Top 100
    Male
    Lớp 4

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/03/2009
    Tổng số bài viết (729)
    Số điểm: 5940
    Cảm ơn: 110
    Được cảm ơn 374 lần


    Tôi tạm giả thiết như sau tiện việc tư vấn:
    -  A và B là đồng sở hữu mảnh đất rẫy. Năm 2007, A bán cho C phần sở hữu của mình đối với mảnh đất rẫy(hợp đồng viết tay ). Năm 2009, B bán cho D phần sở hữu của mình đối với mảnh đất rẫy (hợp đồng viết tay). Năm 2011, C và D đòi nhau yêu cầu bên kia bán phần đất đã mua cho mình ?

    -Tôi thấy rất thú vị với vụ này của bạn. Có một số điểm tôi muốn bạn làm rõ: Bạn có nói khi mua mảnh đất có làm hợp đồng viết tay, bạn có đề cập đến việc xác nhận của xã là "đất không có tranh chấp". Tôi muốn hỏi xác nhận này ở một văn bản riêng hay ngay ở trong hợp đồng?

    TH1:Nếu là trong hợp đồng thì có thể coi như việc mua bán đã được lập thành văn bản và được chứng thực của UBND xã, việc mua bán của bạn hoàn toàn hợp pháp. ĐIều này rất quan trọng.

    TH
    2: Nếu như hợp đồng tay của bạn không có công chứng hay chứng thực, có thể dẫn đến việc vô hiệu của hợp đồng. Tuy nhiên, nó không đương nhiên vô hiệu mà có điều kiện. Nếu như trong vòng 2 năm, kể từ khi giao kết hợp đồng đó mà một trong các bên khởi kiện yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu vì hình thức thì Tòa sẽ giải quyết theo điều 134, BLDS 2005. Nhưng nếu quá thời hạn 2 năm, sẽ không bên nào có quyền kởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo khoản 1 điều 136, BLDS 2005. Như vậy, từ thời điểm giao kết hợp đồng đến giờ là khoảng 4 năm, đã quá thời hạn yêu cầu nó vô hiệu, do đó nó đương nhiên có hiệu lực.

    -Tất nhiên, dù trong trường hợp nào thì giao dich mua bán của bạn vẫn được coi là hợp pháp. Bạn là chủ sở hữu hợp pháp của phần đất được chuyển nhượng từ người bán.

    -Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét đến hợp đồng của B bán cho D (người đang tranh chấp với bạn). Một điều may mắn đối với bạn đã thưc hiện giao dịch trước 01/01/2008, còn D đã mua đất năm 2009 (sau ngày 01/01/2008). Theo điều 66, NGhị định số 84/2007/NĐ-CP thì "Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, người sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận mới được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất" do đó hợp đồng mua bán đất của B và D đương nhiên không có giá trị. B vẫn là đồng sở hữu mảnh đất với bạn.

    -Bây giờ là lúc bạn thực hiện quyền sở hữu của mình với mảnh đất rẫy chung đó. Luật có quy định, nếu một đồng sở hữu muốn bán phần đất mà mình sở hữu sẽ phải ưu tiên bán cho đồng sở hữu khác trong vòng ba tháng từ lúc quyết định bán, nếu các đồng sở hữu không có nhu cầu mua thì mới được bán cho người khác. Nếu trong vòng 3 tháng kể từ khi phát hiện đồng sở hữu bán đất cho người khác thì đồng sở hữu còn lại có quyền kiện ra Tòa để đòi lại quyền ưu tiên mua của mình (theo khoản 3 điều 233, BLDS 2005). Do đó, việc bạn cần làm lúc này là cho đồng sở hữu kia biết quyền của mình, về việc hợp đồng mua bán mà người đó xác lập bị vô hiệu. Bây giờ, bạn cần thỏa thuận với ông ta, làm thỏa thuận xin cấp GCN QSD Đ sau đó làm hợp đồng chuyển nhượng nốt phần đất của ông ta cho bạn. Để cho nhanh, có thể nhượng bộ về giá một chút !

    Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử

    Dịch nghĩa:

    Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

     
    Báo quản trị |  
  • #95132   15/04/2011

    hoadainhan1
    hoadainhan1
    Top 150
    Lớp 2

    Bình Định, Việt Nam
    Tham gia:08/03/2011
    Tổng số bài viết (586)
    Số điểm: 3773
    Cảm ơn: 25
    Được cảm ơn 190 lần


    Chào các bạn,
    Mình xin bổ sung thế này theo giả thiết Im-lawyerx10 đưa ra: mình không biết khi A chuyển nhượng cho C mảnh đất này, tại sao khi C mua bán chuyển nhượng với A lạikhông xem A có giấy tờ gì chứng minh quyền sữ dụng đất của A (như giấy mua bán chuyển nhượng trước đây của họ), mà chỉ nghe A nói là đất của A là tiến hành việc mua bán chuyễn nhượng trên ! và trong mọi trường hợp mua bán chuyển nhượng đất phải có giấy CNQSDĐ, nếu không có thì phải có các loại giấy tờ theo quy định tại khoảng 1,2,5 Điều 50 Luật đất đai thì mới được quyền chuyển nhượng.
    Riêng việc chuyển nhượng giữa A và C tuy là có xác nhận của chính quyền địa phương trước ngày 01.01.2008 theo NĐ 84.2007,nhưng trước đó A không hề có một trong các loại giấy tờ nói trên, và mình không biết là từ trước đến giờ A có đóng thuế gì cho Nhà nước hay không ? việc sử dụng đất của A từ trước đến giờ có xác nhận của UBND về việc sử dụng ổn định từ thời gian nào đến thời gian nào ? và đặc biệt là mảnh đất này từ trước đến giờ ai đứng tên kê khai vào sổ mục kê của UBND cấp có thẩm quyền ? nhưng A không chứng minh được đất đó thuộc QSD của mình, thì việc chuyển nhượng của A với C là vô hiệu cho dù là trước hay sau thời điểm 01.01.2008 cũng vậy mà thôi.  
    Nhưng bạn có điểm thuận lợi là có xác nhận của UBND là đất không tranh chấp, nhưng việc xác nhận này cũng chưa chắc bởi lẽ hiện nay B và D đang có tranh chấp khiếu nại. Vì vậy nếu có khiếu nại tranh chấp thì thuộc thẫm quyền giãi quyết của UBND, lúc đó sẽ rất là phức tạp cho bạn. 
    Do vậy, việc đầu tiên là A phải làm việc lại với A, B và D để giải quyết với nhau tránh việc kiện tụng xảy ra thì tốt hơn.


    Luật sư Nguyễn Hòa, thuộc Văn phòng luật sư NGUYỄN HÒA. ĐT 0903376602

    Địa chỉ: 276 đường Lê Duẩn, Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn, T. Bình Định

    Điện thoại : 0903376602

    Email: luatsuhoa@yahoo.com.vn

    Luật sư sẽ sẵn sàng trực tiếp nhận hồ sơ vụ việc để trợ giúp pháp lý trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.

    Hân hạnh được phục vụ hài lòng quý khách.

     
    Báo quản trị |  
  • #95140   15/04/2011

    Im_lawyerx0
    Im_lawyerx0
    Top 100
    Male
    Lớp 4

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/03/2009
    Tổng số bài viết (729)
    Số điểm: 5940
    Cảm ơn: 110
    Được cảm ơn 374 lần


    Cám ơn những đóng góp của  bạn hoadainhan1 mình có một số ý kiến sau với những bổ sung của bạn:
    @hoadainhan1 trong mọi trường hợp mua bán chuyển nhượng đất phải có giấy CNQSDĐ, nếu không có thì phải có các loại giấy tờ theo quy định tại khoảng 1,2,5 Điều 50 Luật đất đai thì mới được quyền chuyển nhượng.

    - Thực tế, đối với những hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất trước ngày mà nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực thì sẽ không chịu ảnh hưởng của quy định này. Nếu mình không nhậm, nhận định này của bạn xuất phát từ một quy định chính ngay trong Nghị định số 84 này, đó là khoản 2, ĐIều 66:
    "Trường hợp trước ngày 01 tháng 11 năm 2007 người sử dụng đất đã nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận và người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì vẫn được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất"

    Theo mình hiểu thì quy định này có thể coi là một ngoại lệ đối với những trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ngày mà Nghị định này có hiệu lực tức ngày 01/01/02008. Cần phải hiểu rằng, với chủ sở hữu đang tiến hành thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước ngày 01/11/2007 mà có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai  thì vẫn được quyền chuyển nhượng quyền s��� dụng đất của mình cho người khác từ sau ngày 01/11/2008. Thực tế, hợp đồng của A và C đã được xác lập từ năm 2007 trước khi Nghị định 84 này có hiệu lực thi hành. Và mình cũng không tìm thấy trong văn bản nào trước đó có quy định rõ ràng như trên. Bạn có thể trích dẫn giúp mình văn bản điều chỉnh về vấn đề trên, thanks !
    Cập nhật bởi Im_lawyerx0 ngày 15/04/2011 09:14:13 AM Cập nhật bởi Im_lawyerx0 ngày 15/04/2011 09:12:44 AM

    Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử

    Dịch nghĩa:

    Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

     
    Báo quản trị |  
  • #95437   16/04/2011

    hoadainhan1
    hoadainhan1
    Top 150
    Lớp 2

    Bình Định, Việt Nam
    Tham gia:08/03/2011
    Tổng số bài viết (586)
    Số điểm: 3773
    Cảm ơn: 25
    Được cảm ơn 190 lần


    Chào bạn Im-Lawyerx10,

    Bạn có trao đổi với mình trong hộp thư mà mình vừa mới nhận. Cảm ơn bạn đã quan tâm. Bạn trao đổi:
    1)Trong phần tư vấn của bạn có nói, việc chuyển nhượng nếu không có GCN QSDĐ thì phải có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 LĐĐ nhưng mình không tìm thấy văn bản nào trước nghị đinh 84 có quy định rõ ràng về việc này. Bạn có thể cho mình biết nó nằm ở văn bản nào được không?

    2) Thực tế, Nghị định 84 quy định từ "1/1/2008 mọi hợp đồng chuyển nhượng...." tại khoản 1 điều 66, và theo mình khoản 2 điều 66 chính là một ngoại lệ của khoản 1. Cụ thể, theo mình hiểu, mọi hợp đồng chuyển nhượng từ sau ngày 1/1/2008 sẽ được phép nếu hội đủ 2 yếu tố: "người sử dụng đất đã đang thực hiện thủ tục xin cấp GCN trước ngày 1/11/2007" và " có 1 trong những giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50". Như vậy, ở quy định này cũng không điều chỉnh các trường hợp trước khi có nghị định này.

    Mong được cùng bạn trao đổi vấn đề này! Thanks !

    Điều 117. Thực hiện thủ tục hành chính trong việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với một phần thửa đất

    2. Trường hợp thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 116 của Nghị định này. 


    Điều 116. Thực hiện thủ tục hành chính trong trường hợp người sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất       Người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai khi thực hiện thủ tục hành chính về đất đai được giải quyết theo quy định sau:

    3. Trường hợp thực hiện thủ tục hành chính đối với một phần thửa đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc tách thửa theo quy định tại Điều 145 của Nghị định này; thực hiện trình tự, thủ tục hành chính đối với từng thửa đất và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được sử dụng các thửa đất sau khi tách thửa.

    Đây là hai quy định tại Nghị định 181. Ngoài ra, nếu mình nhớ không lầm thì còn có một văn bản chuyên ngành của Tòa án nhân dân tối cao điều chỉnh về trường hợp này. Thân ái.

    Cập nhật bởi hoadainhan1 ngày 16/04/2011 08:40:47 SA

    Luật sư Nguyễn Hòa, thuộc Văn phòng luật sư NGUYỄN HÒA. ĐT 0903376602

    Địa chỉ: 276 đường Lê Duẩn, Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn, T. Bình Định

    Điện thoại : 0903376602

    Email: luatsuhoa@yahoo.com.vn

    Luật sư sẽ sẵn sàng trực tiếp nhận hồ sơ vụ việc để trợ giúp pháp lý trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.

    Hân hạnh được phục vụ hài lòng quý khách.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn hoadainhan1 vì bài viết hữu ích
    Im_lawyerx0 (16/04/2011)
  • #95452   16/04/2011

    hoadainhan1
    hoadainhan1
    Top 150
    Lớp 2

    Bình Định, Việt Nam
    Tham gia:08/03/2011
    Tổng số bài viết (586)
    Số điểm: 3773
    Cảm ơn: 25
    Được cảm ơn 190 lần


    Mình xin trả lời tiếp phần câu hỏi trong hộp thư của mình cho bạn Im-lawyerx10 như sau:

    Bạn hỏi : trường hợp không có giấy CNQSĐD của thửa đất đang sử dụng mà toàn bộ thửa đất đó có một trong các giấy tờ theo quy định tại khoảng 1,2,5 điều 50 LĐĐ thì việc chuyển nhượng sẽ được thực hiện như thế nào, pháp luật có cho phép hay không ? Mình trả lời thêm cho bạn như sau. 
    Cũng như quy định tại Điều 116, Điều 117 của NĐ 181 quy định cho phép giao dịch chuyển nhượng và đăng ký QSDĐ đối với một phần thửa đất chưa có giấy CNQSDĐ mà có một trong các giấy tờ theo quy định tại khoản 1,2,5 Điều 50 LĐĐ. trường hợp bạn hỏi trong hộp thư của mình nêu trên đều được pháp luật cho phép, khi hai bên tiến hành việc giao dịch chuyển nhượng phải có giấy thỏa thuận mua bán chuyển nhượng có xác nhận của chính quyền UBND cấp có thẩm quyền và sau đó trình nguyên bộ hồ sơ chuyển nhượng này đến Văn phòng đăgn ký để chính lý biến động theo quy định. Điều này đã được quy định tại 
    Điều 143 của NĐ 181. Trình tự, thủ tục đăng ký biến động về sử dụng đất do đổi tên, giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên, thay đổi về quyền, thay đổi về nghĩa vụ tài chính   

    1. Người sử dụng đất có nhu cầu đăng ký biến động về sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn xin đăng ký biến động về sử dụng đất;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);

    c) Các giấy tờ pháp lý khác có liên quan đến việc đăng ký biến động về sử dụng đất.

    2. Việc đăng ký biến động sử dụng đất được quy định như sau:

    a) Trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác nhận vào đơn xin đăng ký biến động; làm trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp có thay đổi về diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên thì phải thực hiện trích đo địa chính thửa đất), trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ xin đăng ký biến động đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp;

    b) Trong thời hạn không quá bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
    Thân ái.
    Note: Mình tích cực trả lời như vậy, sao mình không thấy ai cảm ơn hết vậy cà ...!

    Luật sư Nguyễn Hòa, thuộc Văn phòng luật sư NGUYỄN HÒA. ĐT 0903376602

    Địa chỉ: 276 đường Lê Duẩn, Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn, T. Bình Định

    Điện thoại : 0903376602

    Email: luatsuhoa@yahoo.com.vn

    Luật sư sẽ sẵn sàng trực tiếp nhận hồ sơ vụ việc để trợ giúp pháp lý trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.

    Hân hạnh được phục vụ hài lòng quý khách.

     
    Báo quản trị |  
  • #95492   16/04/2011

    Im_lawyerx0
    Im_lawyerx0
    Top 100
    Male
    Lớp 4

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/03/2009
    Tổng số bài viết (729)
    Số điểm: 5940
    Cảm ơn: 110
    Được cảm ơn 374 lần


    Mình gửi 2 tin nhắn riêng cho hoadainhan1 muốn được thảo luận riêng với bạn vấn đề này, nhưng ngược lại bạn không hề gửi lại bất cứ một tin nhắn nào mà lại đưa nội dung tin nhắn của mình lên đây cùng câu trả lời của bạn, mình có thể hiểu bạn đã không tôn trọng mình !

    Về câu trả lời về nội dung tin nhắn đầu tiên, mình không có ý kiến phản đối. Mình chỉ xin có một vài ý kiến ở câu trả lời thứ 2 của bạn:

    -Quy định mà bạn dùng để trả lời cho câu hỏi của mình "khi không có GCN QSDĐ mà chỉ có 1 trong các giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và 5 điều 50 LĐĐ thì có được chuyển nhượng quyền sử dụng đối với toàn bộ mảnh đất đó" và bạn trích dẫn điều 143, nghị định 181. Có lẽ bạn đã nhầm lẫn về đối tượng điều chỉnh của điều 143 nghị định này. Việc đăng ký biến động về sử dụng đất do đổi tên khi mà hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã có hiệu lực( đây chỉ là một trường hợp của việc biến động về sử dụng đất do đổi tên), và đây là thủ tục sau để người nhận chuyển nhượng xác lập quyền sử dụng của mình. Quy định này không phải là cơ sở để trả lời cho câu hỏi của mình.

    Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử

    Dịch nghĩa:

    Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn Im_lawyerx0 vì bài viết hữu ích
    hoadainhan1 (16/04/2011)
  • #95512   16/04/2011

    hoadainhan1
    hoadainhan1
    Top 150
    Lớp 2

    Bình Định, Việt Nam
    Tham gia:08/03/2011
    Tổng số bài viết (586)
    Số điểm: 3773
    Cảm ơn: 25
    Được cảm ơn 190 lần


    Ồ, vậy cho mình xin lỗi bạn nha, mình vô ý quá ! vì mình cứ nghĩ bạn gửi câu hỏi cho mình nó đều nằm trong toàn bộ nội dung câu hỏi đang hỏi trên diễn đàn nên cứ nghĩ mình trình bày để diễn đàn biết. mà trong hộp thư bạn cũng đâu có nói là để trao đổi riêng với mình đâu ! Nếu bạn có nói câu đó thì mình sẽ trao đổi riêng với bạn chứ, đúng không ? Nhưng nếu bạn nói vậy thì mình sẽ rút kinh nghiêm nha ! rất vui mừng khi trao đổi cùng bạn.
    Về câu trả lời của mình nêu trên, mình nghĩ Điều 143 NĐ 181 quy định trường hợp hai bên đã thực hiện giao kết hợp đồng chuyển nhượng mua bán QSDĐ mà bên chuyên nhượng không có sổ đỏ, chỉ có những giấy tờ quy định tại khoảng 1,2,5 Điều 50 LĐĐ (chính vì vậy cho nên mình mới nói trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thì ai là người đứng tên đăng ký kê khai vào sổ mục kê của UBND cấp có thẩm quyền trước đây và hiện nay để làm cơ sở pháp lý cho việc giao dịch của hai bên). Nếu người chuyển nhượng mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 50 LĐĐ hoặc cũng không đăng ký QSDĐ tại UBND cấp có thẩm quyền thì việc chuyển nhượng này là không hợp pháp.
    Nhưng đối với trường hợp của câu hỏi trên diễn đàn thì việc chuyển nhượng này hai bên đã hoàn thành và đã có xác nhận của UBND cấp có thẩm quyền, thì người người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có quyền đăng ký kê khai về biến động đất theo quy định Điều 143 của NĐ 181 chứ. Nghị định này hướng dẫn BLĐĐ, trong đó có đối tượng điều chỉnh là quyền của người sử dụng đất và mình nghĩ điều luật này nó cũng nói khá rõ ràng cho trường hợp câu hỏi trên diễn đàn này. 
    Vài lời trao đổi cùng bạn, chúc bạn cuối tuần tràn đầy hạnh phúc, vui vẻ nha !
    Thân ái chào tạm biệt!

    Luật sư Nguyễn Hòa, thuộc Văn phòng luật sư NGUYỄN HÒA. ĐT 0903376602

    Địa chỉ: 276 đường Lê Duẩn, Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn, T. Bình Định

    Điện thoại : 0903376602

    Email: luatsuhoa@yahoo.com.vn

    Luật sư sẽ sẵn sàng trực tiếp nhận hồ sơ vụ việc để trợ giúp pháp lý trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.

    Hân hạnh được phục vụ hài lòng quý khách.

     
    Báo quản trị |  
  • #95808   17/04/2011

    NguyensoaiD36
    NguyensoaiD36

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:04/09/2010
    Tổng số bài viết (96)
    Số điểm: 840
    Cảm ơn: 69
    Được cảm ơn 62 lần


    1- Bạn lm_lawyerx0 viết :"-Tôi thấy rất thú vị với vụ này của bạn. Có một số điểm tôi muốn bạn làm rõ: Bạn có nói khi mua mảnh đất có làm hợp đồng viết tay, bạn có đề cập đến việc xác nhận của xã là "đất không có tranh chấp". Tôi muốn hỏi xác nhận này ở một văn bản riêng hay ngay ở trong hợp đồng?
    TH1:Nếu là trong hợp đồng thì có thể coi như việc mua bán đã được lập thành văn bản và được chứng thực của UBND xã, việc mua bán của bạn hoàn toàn hợp pháp. ĐIều này rất quan trọng." Theo tôi, việc chuyển nhượng QSDĐ thời điểm 2007 phải tuân theo qui định của điều 127 Luật đất đai 2003 ( kèm theo các Nghị định hướng dẫn ) và Chương XXVIII Bộ luật dân sự 2005 qui định về Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, tất cả không có điều khoản nào qui định giống như bạn lm_lawyerx0 đã trình bày !

    2- Bạn lm_lawyer viết : " .....Nhưng nếu quá thời hạn 2 năm, sẽ không bên nào có quyền kởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo khoản 1 điều 136, BLDS 2005. Như vậy, từ thời điểm giao kết hợp đồng đến giờ là khoảng 4 năm, đã quá thời hạn yêu cầu nó vô hiệu, do đó nó đương nhiên có hiệu lực." Theo tôi, giao dịch dân sự giữa A và C là giao dịch vi phạm điều cấm của Pháp luật ( Pháp luật cấm chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay ) như qui định tại điều 128 BLDS cho nên căn cứ khoản 2 điều 136 BLDS thì thời hiệu yêu cầu tòa tuyên giao dịch này vô hiệu là không bị hạn chế.

    3- Bạn lm_lawyerx0 viết : " @hoadainhan1 trong mọi trường hợp mua bán chuyển nhượng đất phải có giấy CNQSDĐ, nếu không có thì phải có các loại giấy tờ theo quy định tại khoảng 1,2,5 Điều 50 Luật đất đai thì mới được quyền chuyển nhượng.
    - Thực tế, đối với những hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất trước ngày mà nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực thì sẽ không chịu ảnh hưởng của quy định này" . Theo tôi, Nghị định 84/2007/NĐ-CP chỉ cho "hợp thức hóa" đối với những trường hợp đã nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay có hoặc không có chứng thực của UBND Xã, Phường, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền trong giai đoạn trước thời điểm Luật đất đai 2003 có hiệu lực, tức trước ngày 01/7/2004, không hề có điều khoản nào qui định cho "hợp thức hóa" luôn những trường hợp nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay từ khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực.

    4- Bạn lm_lawyerx0 viết : " Nếu trong vòng 3 tháng kể từ khi phát hiện đồng sở hữu bán đất cho người khác thì đồng sở hữu còn lại có quyền kiện ra Tòa để đòi lại quyền ưu tiên mua của mình khoản 3 điều 233, BLDS 2005)" . Theo tôi, điều 233 BLDS 2005 không có khoản 3 mà cũng không qui định điều mà bạn lm_lawyerx0 đã nói !




    Cập nhật bởi NguyensoaiD36 ngày 17/04/2011 09:41:33 PM Cập nhật bởi NguyensoaiD36 ngày 17/04/2011 09:40:36 PM

    SỐNG LÀM VIỆC THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn NguyensoaiD36 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (20/04/2011)
  • #95855   18/04/2011

    Im_lawyerx0
    Im_lawyerx0
    Top 100
    Male
    Lớp 4

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/03/2009
    Tổng số bài viết (729)
    Số điểm: 5940
    Cảm ơn: 110
    Được cảm ơn 374 lần


    Trích dẫn:
    Theo tôi, việc chuyển nhượng QSDĐ thời điểm 2007 phải tuân theo qui định của điều 127 Luật đất đai 2003 ( kèm theo các Nghị định hướng dẫn ) và Chương XXVIII Bộ luật dân sự 2005 qui định về Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, tất cả không có điều khoản nào qui định giống như bạn lm_lawyerx0 đã trình bày !


    -Hợp đồng cần có công chứng hoặc chứng thực. Nếu như UBND đã xác nhận "đất không có tranh chấp" ngay trong hợp đồng đó thì khác gì đã chứng thực cho hợp đồng đó. Nếu bạn nói tuân theo quy định tại điều 127, L Đ Đ thì đâu hoàn toàn đúng. Bởi theo điểm b, khoản 1, điều 127 thì hồ sơ bắt buộc phải bao gồm hợp đồng chuyển nhượng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bạn không nghĩ rằng từ khi luật đất đai 2003 có hiệu lực đến trước khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực, rất nhiều giao dịch chuyển nhượng chỉ là giấy tay mà không hề có sổ đỏ. Nếu như vậy, không cần phải đến Nghị định số 84/2007/N Đ-CP lại cần phải khẳng định lại tại khoản 1, điều 66 rằng tất cả các hợp đồng chuyển nhượng từ ngày 01/01/2008 đều phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Trích dẫn:
    Theo tôi, giao dịch dân sự giữa A và C là giao dịch vi phạm điều cấm của Pháp luật ( Pháp luật cấm chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay ) như qui định tại điều 128 BLDS cho nên căn cứ khoản 2 điều 136 BLDS thì thời hiệu yêu cầu tòa tuyên giao dịch này vô hiệu là không bị hạn chế.


    -Bạn có thể trích dẫn ra được không, vì nó vi phạm điều cấm của pháp luật đương nhiên nó sẽ được quy định rõ ràng tại một quy phạm pháp luật nào đó.

    -Khoản 2, ĐIều 401, BLDS 2005 quy định

    "2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
    Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
    "

    Theo quy định của pháp luật, hợp đồng vi phạm hình thức (đối với hợp đồng được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép, thì phải tuận theo các quy định đó) không đương nhiên bị vô hiệu. Nó chỉ bị tuyên bố vô hiêu khi một trong các bên hoặc người thứ ba yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu do không tuân theo quy định về hình thức của hợp đồng. Theo khoản 1, Điều 136, BLDS 2005 quy định
    "1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập."

    Trong khi đó, hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại điều 134, BLDS 2005, cũng thuộc vào trường hợp điều chỉnh của quy định trên. Do đó, có thể hiểu rằng hợp đồng chỉ bị vô hiệu về hình thức, khi trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập mà một trong các bên hoặc người thứ 3 yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Quá thời hạn trên, không ai có quyền khởi kiện yêu cầu hợp đồng tuyên bố vô hiệu về hình thức nữa, đương nhiên nó vẫn có hiệu lực.

    Trích dẫn:
    Theo tôi, Nghị định 84/2007/NĐ-CP chỉ cho "hợp thức hóa" đối với những trường hợp đã nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay có hoặc không có chứng thực của UBND Xã, Phường, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền trong giai đoạn trước thời điểm Luật đất đai 2003 có hiệu lực, tức trước ngày 01/7/2004, không hề có điều khoản nào qui định cho "hợp thức hóa" luôn những trường hợp nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay từ khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực


    Về vấn đề  hoadainhan1 nói, tôi không còn ý kiến khác. Nhưng có lẽ bạn đã quá mở rộng phạm vi có hiệu lực của nghị định này. Nghị định này chỉ quy định đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện sau ngày mà Nghị định này có hiệu lực. Ngoài quy đinh rõ ràng tại khoản 1, thì khoản 2 mở ra một hướng khác cho phép người sử dụng đất hội đủ hai yếu tố (trước ngay 01/11/2007 đã nộp hồ sơ xin cấp GCN và có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 luật đất đai) thì được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ngày 01/01/2008. Bạn đã không hiểu rõ tinh thần của điều luật này.
    Cập nhật bởi Im_lawyerx0 ngày 18/04/2011 07:35:57 AM

    Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử

    Dịch nghĩa:

    Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

     
    Báo quản trị |  
  • #96307   19/04/2011

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    Tui thấy nội dung xác nhận đất không có tranh chấp hoàn toàn khác với nội dung chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, vậy nên lm_lawyerx0 tưởng cái này ra cái kia chỉ là sự suy diễn đầy "lãng mạn" ! Có thể lm_lawyerx0 chưa từng mục sở thị nội dung chứng thực hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ của UBND Xã. Tôi đồng ý với quan điểm của ông NguyensoaiD36 là Nghị định 84 chỉ cho hợp thức hóa đối với những trường hợp nhận chuyển nhượng bằng giấy tay trong giai đoạn trước ngày 01/7/2004. Còn những trường hợp nhận chuyển nhượng bằng giấy tay từ ngày luật đất đai 2003 có hiệu lực cho tới thời điểm nghị định 84 có hiệu lực thì không bị điều chỉnh bởi nghị định 84 này. A và C thực hiện giao dịch trong giai đoạn Luật đất đai 2003 có hiệu lực cho nên không được căn cứ Nghị định 84 để giải quyết.

    Khoản 2 điều 66 Nghị định 84 qui định trường hợp đã nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ trước 01/11/2007 hoặc có 1 trong các loại giấy tờ về QSDĐ như qui định tại điều 50 Luật đất đai 2003 thì được phép chuyển nhượng sau ngày 01/01/2008, chứ đâu có qui định được chuyển nhượng năm 2007 mà bảo A chuyển nhượng cho C khi bản thân A cũng chưa có giấy đỏ vào năm 2007 là hợp pháp !???!! Riêng  chuyện thời hiệu, ý của ông NguyensoaiD36 là giao dịch giữa A và C đã vi phạm pháp luật vì pháp luật ( điều 127 Luật đất đai và Chương XXVIII Bộ luật dân sự ) qui định muốn chuyển nhượng QSDĐ thì bên chuyển nhượng phải có GCNQSDĐ, phải làm Hợp đồng ( theo mẫu thống nhất ) và phải được chứng thực hay công chứng mà họ chỉ chuyển nhượng bằng giấy tay, còn UBND không phải chứng thực Hợp đồng mà chỉ xác nhận tình trạng đất không tranh chấp. Như vậy, giao dịch này rơi vào trường hợp vi phạm pháp luật tại điều 128 Bộ luật dân sự, cho nên căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ luật dân sự thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên vô hiệu là không bị hạn chế, tức phát hiện lúc nào khởi kiện lúc đó, chứ không phải đã hết thời hiệu như lm_lawyerx0 đã nói.

    Tui thấy lm_lawyerx0 nên nghiên cứu kỹ lại Luật và ý kiến của người khác.
     
    Báo quản trị |  
  • #96338   19/04/2011

    Im_lawyerx0
    Im_lawyerx0
    Top 100
    Male
    Lớp 4

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/03/2009
    Tổng số bài viết (729)
    Số điểm: 5940
    Cảm ơn: 110
    Được cảm ơn 374 lần


    nguoinhaque009 viết:

    Khoản 2 điều 66 Nghị định 84 qui định trường hợp đã nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ trước 01/11/2007 hoặc có 1 trong các loại giấy tờ về QSDĐ như qui định tại điều 50 Luật đất đai 2003 thì được phép chuyển nhượng sau ngày 01/01/2008, chứ đâu có qui định được chuyển nhượng năm 2007 mà bảo A chuyển nhượng cho C khi bản thân A cũng chưa có giấy đỏ vào năm 2007 là hợp pháp !???!!

    Bạn hãy so sánh:
    Nghi định 84/2007/NĐ-CP viết:
    2. Trường hợp trước ngày 01 tháng 11 năm 2007 người sử dụng đất đã nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì vẫn được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.


    Tôi cảm thấy bạn có vẻ khá soi mói kỹ những tư vấn của tôi. Đôi khi tôi chỉ thấy bạn dựa vào những nhận định cảm tính chứ không hề có căn cứ về mặt văn bản quy phạm pháp luật. Nếu bạn không phải là một người học luật điều này hoàn toàn dễ hiểu. Còn ngược lại, bạn nên tự xem xét lại kiến thức pháp luật của mình trước khi khuyên người khác !

    *Note: Tôi sẽ nhận lời cuối cùng của bạn như một lời góp ý chân thành !
    Cập nhật bởi Im_lawyerx0 ngày 19/04/2011 01:58:31 PM

    Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử

    Dịch nghĩa:

    Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn Im_lawyerx0 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (20/04/2011)
  • #96613   20/04/2011

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    Tui thừa nhận đã sai khi dùng từ HOẶC, đúng ra là phải dùng từ . Không có gì phải ngại vì kiến thức là cái biển mênh mông mà người cầu tiến cứ phải học, học nửa, học mãi. Cũng không có gì phải xấu hổ bởi tôi không hề giới thiệu hay tự hào mình từng học Luật. Còn bạn - người từng công khai trong hồ sơ cá nhân rằng mình tự hào vì từng là sinh viên khoa Luật, đại học quốc gia Hà Nội - đã nhận ra cái sai của mình ở chủ đề này chưa ? Nếu rồi thì cũng nên công khai thừa nhận cho xứng đáng với danh hiệu người có học Luật. 
    Văn là người, cứ đọc bài viết của tui ai cũng hiểu tui nói có căn cứ hay nói suông theo cảm nghĩ chủ quan, cũng như đọc văn của tui, người ta sẽ biết tui là người biết hay mù Luật. Tui nghĩ trên diễn đàn luật thì việc chỉ ra cái sai của nhau là bình thường, sao bạn lại bảo tôi soi mói kỹ những tư vấn của bạn ? Có lẽ phải nói với bạn suy nghĩ thật của tui : tới thời điểm này, tui chưa xem những bài viết của bạn là tư vấn luật, bởi nó có số lượng, nội dung dài nhưng chất lượng thì nhiều bài không đạt chuẩn để được gọi là tư vấn.
    Cập nhật bởi nguoinhaque009 ngày 20/04/2011 12:20:02 SA
     
    Báo quản trị |