Trích dẫn:Theo tôi, việc chuyển nhượng QSDĐ thời điểm 2007 phải tuân theo qui định của điều 127 Luật đất đai 2003 ( kèm theo các Nghị định hướng dẫn ) và Chương XXVIII Bộ luật dân sự 2005 qui định về Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, tất cả không có điều khoản nào qui định giống như bạn lm_lawyerx0 đã trình bày !
-Hợp đồng cần có công chứng hoặc chứng thực. Nếu như UBND đã xác nhận "đất không có tranh chấp" ngay trong hợp đồng đó thì khác gì đã chứng thực cho hợp đồng đó. Nếu bạn nói tuân theo quy định tại điều 127, L Đ Đ thì đâu hoàn toàn đúng. Bởi theo
điểm b, khoản 1, điều 127 thì hồ sơ bắt buộc phải bao gồm
hợp đồng chuyển nhượng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bạn không nghĩ rằng từ khi luật đất đai 2003 có hiệu lực đến trước khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP có hiệu lực, rất nhiều giao dịch chuyển nhượng chỉ là giấy tay mà không hề có sổ đỏ. Nếu như vậy, không cần phải đến Nghị định số 84/2007/N Đ-CP lại cần phải khẳng định lại tại khoản 1, điều 66 rằng
tất cả các hợp đồng chuyển nhượng từ ngày 01/01/2008 đều phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trích dẫn:Theo tôi, giao dịch dân sự giữa A và C là giao dịch vi phạm điều cấm của Pháp luật ( Pháp luật cấm chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay ) như qui định tại điều 128 BLDS cho nên căn cứ khoản 2 điều 136 BLDS thì thời hiệu yêu cầu tòa tuyên giao dịch này vô hiệu là không bị hạn chế.
-Bạn có thể trích dẫn ra được không, vì nó vi phạm điều cấm của pháp luật đương nhiên nó sẽ được quy định rõ ràng tại một quy phạm pháp luật nào đó.
-Khoản 2, ĐIều 401, BLDS 2005 quy định
"2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác."
Theo quy định của pháp luật, hợp đồng vi phạm hình thức (đối với hợp đồng được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép, thì phải tuận theo các quy định đó) không đương nhiên bị vô hiệu. Nó chỉ bị tuyên bố vô hiêu khi một trong các bên hoặc người thứ ba yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu do không tuân theo quy định về hình thức của hợp đồng. Theo
khoản 1, Điều 136, BLDS 2005 quy định
"1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập."
Trong khi đó,
hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại
điều 134, BLDS 2005, cũng thuộc vào trường hợp điều chỉnh của quy định trên. Do đó, có thể hiểu rằng hợp đồng chỉ bị vô hiệu về hình thức, khi trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập mà một trong các bên hoặc người thứ 3 yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Quá thời hạn trên, không ai có quyền khởi kiện yêu cầu hợp đồng tuyên bố vô hiệu về hình thức nữa, đương nhiên nó vẫn có hiệu lực.
Trích dẫn:Theo tôi, Nghị định 84/2007/NĐ-CP chỉ cho "hợp thức hóa" đối với những trường hợp đã nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay có hoặc không có chứng thực của UBND Xã, Phường, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền trong giai đoạn trước thời điểm Luật đất đai 2003 có hiệu lực, tức trước ngày 01/7/2004, không hề có điều khoản nào qui định cho "hợp thức hóa" luôn những trường hợp nhận chuyển nhượng QSDĐ bằng giấy tay từ khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực
Về vấn đề
hoadainhan1 nói, tôi không còn ý kiến khác. Nhưng có lẽ bạn đã quá mở rộng phạm vi có hiệu lực của nghị định này.
Nghị định này chỉ quy định đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện sau ngày mà Nghị định này có hiệu lực. Ngoài quy đinh rõ ràng tại khoản 1, thì khoản 2 mở ra một hướng khác cho phép người sử dụng đất hội đủ hai yếu tố (
trước ngay 01/11/2007 đã nộp hồ sơ xin cấp GCN và có
một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 luật đất đai) thì được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ngày 01/01/2008. Bạn đã không hiểu rõ tinh thần của điều luật này.
Cập nhật bởi Im_lawyerx0 ngày 18/04/2011 07:35:57 AM
Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử
Dịch nghĩa:
Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.