Chào bạn lsvthap !
bạn viết "Rất đồng tình với quan điểm của bạn. Nhưng đó là diễn biến tại phiên Tòa."
Bạn nói rất đúng! ý tôi nói đến diễn biến tại phiên tòa là như vậy. Theo tôi thì Tòa án phải thụ lý rồi sau đó sẽ đình chỉ theo tinh thần quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.
Việc bạn nói "Tòa không thụ lý" tức là trả đơn khởi kiện
Theo tôi được biết nếu tòa án trả đơn là không đúng. Lý do :
Trả đơn khởi kiện thì tòa án chỉ có thể viện dẫn hai lý do (các trường hợp khác theo điều 168 của Bộ Luật Tố Tụng Dân sự đều rỏ ràng không phù hợp) :
-Người khởi kiện không có quyền khởi kiện : trường hợp này, theo "tài liệu tập huấn hướng dẫn thi hành bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi bổ sung) của Tòa Án Tối Cao thì "Nếu nói một cách tổng quát thì người khởi kiện không có quyền khởi kiện là người không thuộc một trong các chủ thể quy định tại điều 161 và điều 162 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự.
-Chưa đủ điều kiện khởi kiện : Theo tài liệu tập huấn hướng dẫn thi hành bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi bổ sung) của Tòa Án Tối Cao phải là trường hợp "người" đó có quyền khởi kiện , nhưng vì chưa đủ điều kiện do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận nên chưa được khởi kiện vụ án dân sự.Ví dụ : người vợ đang mang thai thì người chồng chưa được khởi kiện vụ án ly hôn ; trường hợp tranh chấp đất đai mà chưa qua hòa giải ở cơ sở theo quy định của luật đất đai 2003 ; người khởi kiện không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở thời điểm khởi kiện v v...hoặc trong hợp đồng, hai bên thỏa thuận nếu xãy ra tranh chấp phải qua hòa giải ở Ủy ban nhân dân xã nơi cả hai bên cư trú, nếu không hòa giải được mới khởi kiện ra tòa án. khi xãy ra tranh chấp, hai bên chưa yêu cầu Ủy ban nhân dân xã hòa giải mà đã khởi kiện thì tòa án trả lại đơn khởi kiện.
Như vậy, nếu làm đúng tố tụng thì Tòa án không được trả đơn khởi kiện; Phải thụ lý, rồi sau đó sẽ đình chỉ vụ kiện nếu trong quá trình gỉai quyết vụ án nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ theo yêu cầu của quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn : "Điểm a Khoản 1 Điều 80 BLTTDS quy định những tình thiết sự kiện không phải chứng minh: "Những tình tiết sự kiện mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận". K2 Điều 80 BLTTDS quy định "Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết sự kiện mà bên kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh".
Điều này chỉ thực hiện được sau khi vụ án đã được thụ lý, chưa thụ lý thì làm sao biết đương sư có thừa nhận hay phản đối không ? Trả đơn khởi kiện là sai tố tụng.
Tuy nhiên tôi không đồng ý với bạn là :"Đã không có chứng cứ để chứng minh đã được chia rồi thì nó là chưa chia."
Điều này không có cơ sở và trái với nguyên tắc Người khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu của mình.
Nếu tôi khởi kiện đòi nợ bạn, bạn không chứng minh được là không có nợ, thì là có nợ hay sao ?
Thật ra, Văn bản cùng xác nhận là tài sản "chưa chia" không phải nhằm xác định "chưa chia" thì "chia" đâu bạn. Quan trọng là người khởi kiện xác định di sản đó là tài sản chung thì phải chứng minh. Luật dân sự 2005 cũng quy định căn cứ để xác định tài sản chung như sau :
"Điều 215. Xác lập quyền sở hữu chung
Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán."
Không xác định đó là tài sản chung thì làm sao chia tài sản chung được.
HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !