Bài diễn thuyết của TS Ngô Hữu Phước, trưởng bộ Môn Công pháp quốc tế, Trường ĐH Luật Tp.HCM tại buổi Mít-ting trước Nhà hát Thành phố ngày 11/5/2014
Kính thưa quý vị Đại biểu cùng toàn thể các bạn đoàn viên thanh niên thân mến!
Tiếp nối các hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế và dư luận tiến bộ thế giới nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, xâm phạm trắng trợn chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển, đảo của Việt Nam, từ ngày 1/5/2014, Tổng công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã tiến hành hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thểm lục địa của Việt Nam theo quy định của Công ước quốc tế về luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982 (cách đảo Lý Sơn 119 hải lý). Với tư cách là một người giảng dạy và nghiên cứu pháp luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế nói riêng, tôi cực lực phản đối hành vi này của Trung Quốc với 05 luận điểm cơ bản sau đây:
1. Về phương diện pháp lý quốc tế, đây là hành vi vi phạm nghiệm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam đã được luật pháp quốc tế thừa nhận và quy định trong Công ước về luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982, cụ thể:
Theo quy định của Công ước, quốc gia ven biển có quyền thiết lập vùng đặc quyền kinh tế rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng biển này, quốc gia ven biển có quyền thuộc chủ quyền về kinh tế (quyền thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió).
Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán (cho phép, kiểm tra, giám sát, xử lý ) đối với các hoạt động lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, nghiên cứu khoa học về biển và bảo vệ và gìn giữ môi trường biển (Điều 56). Để thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, Công ước cho phép các quốc gia ven biển“ thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia đã ban hành theo đúng Công ước” (Điều 73).
Bên cạnh đó, Công ước cũng quy định trách nhiệm của các quốc gia khác, “khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước…”. (Điều 58).
Đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, Công ước cho phép quốc gia ven biển thiết lập một vùng đáy biển có chiều rộng tính từ đường cơ sở đến rìa lục địa hẹp nhất là 200 hải lý và rộng nhất là 350 hải lý là thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền đối với mọi tài nguyên thiên nhiên có trong thềm lục địa của mình. Đây là các quyền có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó (Điều 77).
Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán ở thềm lục địa trong 4 lĩnh vực: Lắp đặt các đảo và công trình thiết bị nhân tạo; nghiên cứu khoa học về biển; khoan ở thềm lục địa và bảo vệ giữ gìn môi trường biển (Điều 78,79,80,81).
Nghiêm trọng hơn, khi các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt việc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan HD-981 thì Trung Quốc đã huy động hơn 80 tàu kể cả tàu quân sự và máy bay để yểm trợ, đe doạ, uy hiếp và tấn công các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam làm thiệt hại nặng nề tàu, tài sản và làm 09 kiểm ngư Việt Nam bị thương.
Đây là hành động vi phạm nghiệm trong luật pháp quốc tế nói chung, Hiến chương Liên Hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói riêng, đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; nguyên tắc cấm sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế; nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế trong đó có Công ước về luật biển của Liên Hợp mà lẽ ra Trung Quốc, một cường quốc và là nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc phải gương mẫu và tuân thủ thực hiện.
2. Về phương diện pháp luật quốc gia, hành vi hạ đặt giàn khoan HD-981 đã vi phạm nghiệm trọng pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật Biển Việt Nam năm 2012. Một đạo luật chuyên ngành về biển, là cơ sở pháp lý quốc gia quan trọng nhất để nhà nước, mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển là nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Theo Luật Biển Việt Nam 2012, Việt Nam có chủ quyền tuyệt đối với vùng Nội thuỷ (từ bờ biển đến đường cơ sở), có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với vùng lãnh hải (rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở). Đồng thời, Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải ( bên ngoài lãnh hải, chiều rộng hợp với lãnh hải bằng 24 hải lý), vùng đặc quyền kinh tế (rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở) và vùng thềm lục địa (đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài lãnh hải cách đường cơ sở nơi hẹp nhất là 200 hải lý và nơi rộng nhất là 350 hải lý ).
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam, Việt Nam có quyền kiểm, giám sát và trừng trị các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hải quan, thuế quan, y tế và nhập cư. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Việt nam có quyền thuộc chủ quyền về kinh tế (đây là các ĐẶC QUYỀN về thăm dò, khai thác, bảo tồn các loại tài nguyên thiên nhiên sinh vật và không sinh vật) và quyền tài phán (quyền cho phép, kiểm tra, giám sát và xử lý đối với các hoạt động lắp đặt các đảo nhân tạo và công trình, thiết bị nhân tạo khác như cáp ngầm, ông dẫn ngầm, giàn khoan, nhà dàn....
Việc tuyên bố và xác lập quy chế pháp lý đối với các vùng biển của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với Công ước về luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982 và đã được cộng đồng quốc tế công nhận.
3. Về phương diện chính trị ngoại giao quốc tế, hành vi của Trung Quốc đã vi phạm nghiên trọng tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông mà Trung Quốc và các nước ASEAN đã đặt được năm 2002 (DOC) và Thoả thuận về những nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011. Trong DOC Trung Quốc và các nước ASEAN đã cam kết:
Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với nhà nước.
Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên căn bản bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời Biển Đông như đã được minh thị bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự kiềm chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng.
Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, bao gồm:
• Tổ chức các cuộc đối thoại và trao đổi quan điểm một cách thích đáng giữa các quan chức phụ trách quân sự và quốc phòng
• Bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai họa
• Thông báo trên cơ sở tự nguyện cho các bên liên quan khác về mọi cuộc tập luyện quân sự liên kết/hỗn hợp sắp diễn ra
• Trao đổi trên cơ sở tự nguyện những thông tin liên quan
Điều 6: Trong khi chờ đợi một sự dàn xếp tòan diện và bền vững những tranh chấp, các bên liên quan có thể tìm kiếm hoặc tiến hành các hoạt động hợp tác. Những hoạt động này có thể bao gồm các điều sau đây:
• Bảo vệ môi trường biển
• Nghiên cứu khoa học biển
• An toàn hàng hải và thông tin trên biển
• Hoạt động tìm kiếm cứu hộ
• Đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, kể cả nhưng không hạn chế trong hoạt động buôn lậu các loại thuốc cấm, hải tặc và cướp có vũ trang trên biển, hoạt động buôn bán trái phép vũ khí
Thể thức, quy mô và địa điểm, đặc biệt là sự hợp tác song phương và đa phương, cần phải được thỏa thuận bởi các bên có liên quan trước khi triển khai thực hiện trong thực tế
Điều 7: Các bên liên quan sẵn sàng tiếp tục các cuộc đối thoại và tham vấn về những vấn đề liên quan, thông qua các thể thức được các bên đồng ý, kể cả các cuộc tham vấn thường xuyên theo quy định của Tuyên bố này, vì mục tiêu khuyến khích sự minh bạch và láng giềng tốt, thiếp lập sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau một cách hài hòa, và tạo điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và tran chấp giữa các bên
Điều 8: Các bên có trách nhiệm tôn trọng những điều khoản của Tuyên bố này và hành động phù hợp với sự tôn trọng đó.
Điều 9: Các bên khuyến khích các nước khác tôn trọng các nguyên tắc bao hàm trong Tuyên bố này.
Điều 10: Các bên liên quan khẳng định rằng việc tiếp thu một bộ quy tắc về ứng xử trên Biển Nam Trung Hoa sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn hòa bình và ổn định trong khu vực và nhất trí làm việc trên căn bản đồng thuận để tiến tới hoàn thành mục tiêu này.
Đặc biệt là các hành động của Trung Quốc đã phá vỡ Thoả thuận về nguyên tắc giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và trung Quốc năm 2011 mà hai nước đã cam kết:
(1). Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
(2). Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển.
(3). Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
(4). Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.
(5). Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
(6). Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.
4. Về phương diện an ninh quốc tế và tự do hàng hải quốc tế, hành động của Trung Quốc đã cản trở và đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, an toàn hàng hải, xâm phạm đến tự do hàng hải của các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt là các cường quốc hàng hải của thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Nga, Úc, Nhật Bản….Mặt khác, hành động của Trung Quốc đã làm cho an ninh của khu vực và thế giới trở nên căng thẳng, phức tạp, làm gia tăng chạy đua vũ trang và nguy cơ xung đột vũ trang trên biển, một hệ luỵ vô cùng nguy hiểm đối với hoà bình và an ninh của các nước trong khu vực và thế giới.
5. Về tình hữu nghị và đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Trung, hành động sai trái trên của Trung Quốc làm ảnh hưởng đến tình cảm và mối quan hệ hữu nghị, truyền thống tốt đẹp, hoà hiếu, láng giềng thân thiện của hai dân tộc Việt – Trung. Là tài sản vô cùng quý giá đã được các thế hệ lãnh đạo và người dân hai nước xây dựng và vun đắp từ trước tới nay. Bởi lẽ, để biện minh cho hành động sai trái của mình, một số người có thẩm quyền và giới truyền thông tiêu cực của trung Quốc đã đánh lừa nhân dân Trung Quốc khi tráo trở cho rằng, Việt Nam đã có hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, cản trở, tấn công các tàu Trung Quốc đang hạ đặt giàn khoan hợp pháp trên vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Do vậy, chúng ta cần nói với nhân dân yêu hoà bình của Trung Quốc để họ hiểu rằng, chính Công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc và các lực lượng Hải giám, Hải tuần, Kiểm ngư và kể cả lực lượng hải quân Trung Quốc mấy ngày qua mới là người có hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoang Sa, xâm phạm trắng trợn quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tấn công vào các tàu của các lượng thực thi pháp luật của Việt Nam gây ra nhiều thiệt hại đối với tài sản và sức khoẻ của cán bộ, chiến sĩ của Việt Nam đang làm nhiệm vụ thiêng liêng trên các vùng biển của Việt Nam.
Vì tất cả những lý lẽ nói trên, tôi cực lực phản đối hành động hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 mà Trung Quốc đã thực hiện trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam!