Căn cứ khoản 1 Điều 16 Bộ luật lao động 2019 quy định:
“Điều 16. Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động
1. Người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin trung thực cho người lao động về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bảo vệ bí mật công nghệ và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người lao động yêu cầu.
[...]”
Căn cứ khoản 7 Điều 3 Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH quy định:
“Điều 3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động
Nội dung chủ yếu phải có của hợp đồng lao động theo khoản 1 Điều 21 của Bộ luật Lao động được quy định như sau:
[...]
7. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: theo thỏa thuận của hai bên hoặc thỏa thuận thực hiện theo nội quy lao động, quy định của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể và quy định của pháp luật.
[...]”
Như vậy, NSDLĐ và NLĐ cần phải thỏa thuận với nhau về thời giờ làm việc, tuy nhiên không quy định phải ghi cụ thể vào trong Hợp đồng lao động (HĐLĐ) tổng số ngày công nhưng phải có nội dung quy định dẫn chiếu về thời giờ làm việc. Do vậy, NSDLĐ và NLĐ có thể thỏa thuận thời giờ làm việc trong HĐLĐ sẽ tuân theo nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo quy định pháp luật.
Hiện tại, pháp luật chưa quy định cụ thể số ngày công của tháng vì vậy không nhất thiết NSDLĐ không phải quy định tổng số ngày công trong tháng (trừ trường hợp NSDLĐ thỏa thuận trả lương theo ngày công).