XỬ LÝ NỢ XẤU BẰNG BIỆN PHÁP CHUYỂN NỢ THÀNH VỐN GÓP TẠI VIỆT NAM – HIỆN TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

Chủ đề   RSS   
  • #342409 04/09/2014

    luatsutraloi3
    Top 200
    Male
    Lớp 6

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/08/2014
    Tổng số bài viết (439)
    Số điểm: 7761
    Cảm ơn: 294
    Được cảm ơn 142 lần


    XỬ LÝ NỢ XẤU BẰNG BIỆN PHÁP CHUYỂN NỢ THÀNH VỐN GÓP TẠI VIỆT NAM – HIỆN TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

     

    Ths. NGUYỄN VĂN THỌ (Vietcombank) –Ths. NGUYỄN NGỌC LINH (Baovietbank)

    Thời gian qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Vấn đề trọng tâm hiện nay là xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại, bởi nó làm tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam. Xử lý nợ xấu là bước đi quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và có ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Có nhiều biện pháp để TCTD xử lý nợ xấu, tuy nhiên, chuyển nợ thành vốn góp được coi là một trong những biện pháp nhanh chóng, hiệu quả và mang lại lợi ích cho cả người vay và người nợ.

    1. Khái niệm nội dung xử lý nợ xấu bằng biện pháp chuyển nợ thành vốn góp

    1.1. Khái niệm chuyển nợ thành vốn góp

    Chuyển nợ thành vốn góp là việc chủ nợ hoặc tổ chức thay vì thu hồi tiền nợ đã cho doanh nghiệp vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để “mua” chính cổ phần của doanh nghiệp hoặc một đối tác quan tâm mua lại chính khoản nợ đó từ chủ nợ với giá tương đương hoặc theo thỏa thuận. Khi đó, chủ nợ hoặc người mua nợ sẽ trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp, đầu tư thêm vốn để tái cơ cấu lại toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp từ tổ chức nhân sự đến hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển…

    1.2. Ưu điểm của biện pháp chuyển nợ thành vốn góp

      – Đối với TCTD: Việc áp dụng biện pháp này sẽ giúp ngân hàng sớm thoát khỏi nợ xấu, “làm đẹp” bản báo cáo tài chính, đồng thời giúp ngân hàng tăng nguồn vốn do vốn vay chuyển thành khoản đầu tư tài chính của ngân hàng.

      – Đối với doanh nghiệp: Việc chuyển nợ thành vốn góp sẽ ngay lập tức giúp doanh nghiệp bỏ áp lực trả nợ cho ngân hàng, có điều kiện khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh từ nguồn cấp vốn của các TCTD hoặc các nguồn vốn đầu tư khác.

     

      – Đối với nền kinh tế: Việc xử lý nợ xấu theo biện pháp chuyển nợ thành vốn góp sẽ giảm thiểu được những tác động tiêu cực như: doanh nghiệp bị phá sản, người lao động mất việc làm… Biện pháp này không chỉ giúp các TCTD sớm thu hồi được nợ xấu, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phục hồi và phát triển.

    1.3. Đối tượng áp dụng

    Biện pháp chuyển nợ thành vốn góp cổ phần tỏ rõ hiệu quả trong việc xử lý khoản nợ của các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời trong hoạt động kinh doanh, có đủ thực lực để khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh nếu có nguồn vốn hỗ trợ. Các doanh nghiệp này phải có thương hiệu trên thị trường, có hệ thống nhà xưởng, dây chuyền máy móc thiết bị sản xuất kinh doanh, lãnh đạo doanh nghiệp có tâm huyết và thực sự muốn vực dậy doanh nghiệp…

    2. Thực trạng hoạt động chuyển nợ thành vốn góp tại Việt Nam

    2.1. Những kết quả đạt được

    Những năm gần đây, tại Việt Nam, việc xử lý nợ xấu bằng biện pháp góp vốn cổ phần đã giúp các doanh nghiệp gặp khó khăn, đứng trước bờ vực phá sản khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu biểu là các trường hợp sau:

    - Sadico Cần Thơ (SDG: HNX) có vốn điều lệ 50 tỷ đồng, từng là doanh nghiệp mạnh về sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng tại Cần Thơ. Do đầu tư dồn hết vào nhà máy sản xuất bao bì, SDG rơi vào tình cảnh thua lỗ nặng nề, mất khả năng thanh toán nợ, được DATC xử lý tài chính và nắm giữ 50% cổ phần từ tháng 6/2007. Sau 4 năm tái cấu trúc, hoạt động kinh doanh của SDG đã khôi phục hoàn toàn và tăng trưởng trở lại.

    - Công ty cổ phần Mía đường Kon Tum (KTS: HNX) là DNNN trực thuộc UBND tỉnh Kon Tum đã từng làm ăn không hiệu quả. Với vốn điều lệ 30 tỷ đồng, KTS được tái cơ cấu, chuyển đổi sở hữu từ tháng 7/2008. Sau 6 tháng, KTS đã bắt đầu có lãi 5,4 tỷ đồng. Sau khi DATC tái cấu trúc nợ và chuyển đổi sở hữu, tình hình tài chính của KTS có sự cải thiện đáng kể về chất và lượng.

    - Công ty CP Thủy sản Bình An (Bianfishco): Năm 2011 và 7 tháng đầu năm 2012, Bianfishco gặp khó khăn do nguồn nguyên liệu đầu vào thiếu ổn định, chi phí tài chính tăng cao, ngân hàng ngưng cung cấp tín dụng, quản trị điều hành doanh nghiệp yếu kém khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, Công ty bị thua lỗ, số dư nợ đọng ngân hàng và người dân bán cá lớn. Các chủ nợ chính là các TCTD đã cùng phối hợp tái cấu trúc lại hoạt động của Công ty thông qua việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần. Đến 24/08/2012, Công ty đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư Cần Thơ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới, theo đó, ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) chính thức trở thành cổ đông lớn nhất, sở hữu 25 triệu cổ phần bằng 50% vốn điều lệ Bianfishco (Bianfishco có vốn điều lệ 500 tỷ đồng) và tham gia vào hoạt động tái cấu trúc toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh của Bianfishco.

    2.2. Những tồn tại, hạn chế

    a) Sân chơi riêng của DATC

    Tại Việt Nam hiện nay, việc xử lý nợ xấu bằng biện pháp chuyển nợ thành vốn góp gần như chỉ thực hiện bởi Công ty mua bán nợ tồn đọng – Bộ Tài chính (DATC) thông qua việc thực hiện mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại. Theo đó, DATC sẽ mua lại khoản nợ của doanh nghiệp từ các ngân hàng thương mại để trở thành chủ nợ chính và chuyển nợ thành vốn góp tại doanh nghiệp, trở thành cổ đông chính kiểm soát doanh nghiệp. Trên cơ sở nguồn vốn của mình, DATC sẽ “bắt tay” vào việc “cứu sống” doanh nghiệp bằng cách tiến hành khôi phục lại các hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động. Sau khi doanh nghiệp hoạt động ổn định và phát triển trở lại, DATC sẽ cổ phần hóa doanh nghiệp, đưa lên sàn chứng khoán hoặc bán lại doanh nghiệp cho các nhà đầu tư quan tâm để thu hồi vốn. Đây là một quá trình đầu tư dài hạn, bắt đầu từ khi DATC bỏ tiền mua lại khoản nợ từ các TCTD, cấp thêm vốn để khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến khi thu hồi lại vốn đầu tư.

    b) Các ngân hàng thương mại không mặn mà

    Trên thực tế, hiện nay các TCTD không mặn mà với biện pháp chuyển nợ xấu thành vốn góp cổ phần tại doanh nghiệp, tiêu biểu là trường hợp của Công ty CP Thủy sản Phương Nam: (Vào thời điểm tháng 11/2012, Công ty Phương Nam nợ các ngân hàng số tiền khoảng 1.599 tỷ đồng, đứng trên phá sản. Các ngân hàng chủ nợ cùng DATC đã thống nhất tái cơ cấu lại Công ty Phương Nam, theo đó, có 2 ngân hàng tham gia góp vốn đó là LienVietPostBank và ABBank. LienVietPostBank (nắm 62,43% vốn điều lệ), ABBank với tỷ lệ 34,17%. Sau 4 tháng tái cấu trúc, Phương Nam đã đạt được những kết quả khả quan. Kim ngạch xuất khẩu tháng 7,8,9/2013 liên tục tăng, lương của tất cả các lao động tại công ty đã tăng thêm 20% lên gần bằng mặt bằng chung của các nhà máy thủy sản trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, nhiều khách hàng truyền thống từ Mỹ, Nhật, EU đã quay lại với công ty.)

    Các TCTD không mặn mà với biện pháp này vì những nguyên nhân như sau:

    - Chức năng chính của TCTD hiện nay vẫn tập trung phát triển hoạt động kinh doanh, bao gồm các mảng: tín dụng, huy động vốn, dịch vụ thẻ… Do đó, thay vì góp vốn trực tiếp vào khách hàng nợ xấu và đầu tư thời gian, cấp tín dụng cũng như sắp xếp nhân sự tổ chức vào các doanh nghiệp nợ xấu, các TCTD chọn cách chuyển “chức năng” này sang DTAC thông qua biện pháp bán nợ. Bằng biện pháp này, TCTD sẽ có vốn (dù tỷ lệ mất vốn khá cao) để tiếp tục đưa dòng vốn vào hoạt động kinh doanh thay vì góp vốn và tiếp tục rót vốn vào doanh nghiệp và không biết bao giờ mới có thể thu hồi toàn bộ vốn cho vay.

    - Hầu hết các TCTD có chức năng đầu tư và lãnh đạo các doanh nghiệp “ngoài ngành” khôi phục hoạt động: Các doanh nghiệp vay vốn tại các TCTD rất đa dạng, hoạt động kinh doanh trong nhiều ngành nghề, các TCTD nếu thực hiện chuyển nợ vay thành vốn góp cổ phần không thể tự mình thực hiện việc “chèo lái” doanh nghiệp đang trên bờ vực phá sản.

    c) Đối tượng xử lý hạn chế

      Do việc mua nợ sau đó chuyển nợ thành vốn góp chủ yếu được thực hiện bởi DATC nên đối tượng xử lý rất hạn chế. Mục tiêu của DATC là các DNNN không thể cổ phần hóa do thua lỗ. Như vậy, nếu các TCTD không mặn mà áp dụng biện pháp này, nhiều doanh nghiệp cổ phần, tư nhân không có cơ hội khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh và buộc phải chấp nhận xử lý bán hết tài sản để trả nợ ngân hàng và bị xóa sổ trên thị trường.

    3. Kiến nghị và giải pháp

    3.1. Các giải pháp giúp đẩy mạnh hoạt động của thị trường mua bán nợ

    Các tổ chức cho vay vốn sau khi thực hiện góp vốn và vực dậy doanh nghiệp thường sẽ bán lại doanh nghiệp để thu hồi vốn, vì vậy, một thị trường mua bán nợ ổn định sẽ tạo động lực cho hoạt động chuyển nợ thành vốn góp sôi động và được quan tâm hơn. Một số kiến nghị thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ như:

    - Xây dựng hệ thống/xác định giá bán Nợ: Bộ Tài chính, NHNN và các cơ quan liên quan cần thống nhất với nhau trong việc xây dựng hệ thống cơ sở xác định giá trị khoản Nợ để làm cơ sở đàm phán giữa bên mua và bên bán bởi hiện tại trong giao dịch mua bán nợ, sự chênh lệch lớn giữa giá chào mua và giá chấp nhận bán làm kéo dài thời gian đàm phán và dẫn đến thất bại trong giao dịch.

    - Xây dựng chính sách ưu đãi thuế đối với hoạt động này để khuyến khích việc mua bán: Hiện nay, thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam là 25% (sẽ giảm còn 22% từ tháng 1/2014), thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%… chưa kể đến các loại phí khác phát sinh thực hiện việc mua bán nợ. Nhiều nhà đầu tư sau khi mua bán nợ không bán lại nợ mà trực tiếp cấp thêm vốn để cứu sống doanh nghiệp, khôi phục và phát triển lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước khi bán lại doanh nghiệp để thu hồi vốn, vì thế, chính sách ưu đãi thuế sẽ khuyến khích và tạo động lực cho các nhà đầu tư khi nghiên cứu việc mua các khoản nợ để tái đầu tư.

    - Có các chính sách kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường mua bán nợ tại Việt Nam: Thực lực của các công ty mua bán nợ tại Việt Nam như phân tích ở trên không đủ sức để có thể xử lý khoản nợ xấu lớn với giá trị khoảng 14 tỷ USD tại Việt Nam, vì vậy Nhà nước cần có các chính sách kêu gọi và hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ tiềm năng tại Việt Nam. Với nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hàng chục năm phát triển thị trường mua bán nợ, các nhà đầu tư ngoại sẽ là một trong những đối tác tham gia hoạt động hiệu quả trên thị trường Việt Nam.

      3.2. NHNN cần có chính sách khuyến khích TCTD tự chuyển nợ xấu thành vốn góp

      – Đối với các doanh nghiệp nợ xấu cần xử lý, hầu hết đã dừng hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng, không còn vốn lưu động để hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy, các TCTD nếu muốn áp dụng biện pháp chuyển nợ thành vốn góp cần phải cấp thêm vốn để DN khôi phục hoạt động trở lại. Liên quan đến việc phân loại nợ đối với khoản tín dụng cấp mới, NHNN cần có cơ chế riêng về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản tín dụng cấp thêm cho doanh nghiệp do doanh nghiệp gặp khó khăn có thể xếp nhóm nợ xấu tại nhiều TCTD, việc cấp thêm vốn nếu vẫn bị nợ xấu sẽ tăng áp lực trả nợ cũng như chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho ngân hàng, vì vậy, theo Thông tư 02, cần giữ doanh nghiệp này ở nhóm nợ tốt khi cho vay bổ sung vốn thay vì chuyển nợ xấu theo xếp hạng tại các TCTD khác.

      3.3. Các biện pháp từ chính các TCTD

      – Các TCTD cần chủ động tham gia vào các Hiệp hội, ngành nghề nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh trong trường hợp quyết định đầu tư thêm vốn để vực dậy doanh nghiệp, thay vì chỉ tham gia với tư cách tìm kiếm thông tin và khách hàng phục vụ mục đích phát triển hoạt động tín dụng như hiện nay.

      – Các TCTD cũng cần bổ sung chức năng hoạt động của các Công ty AMC trực thuộc, bên cạnh việc quản lý, khai thác tài sản như hiện tại, cần chú trọng thêm vào hoạt động quản lý kinh doanh, tái cấu trúc lại doanh nghiệp thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh TCTD đã cấp vốn vay nhằm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản đã nhận để cấn trừ nợ. Trường hợp TCTD không có hoặc chưa thành lập Công ty AMC trực thuộc, cần đẩy mạnh và tăng cường cấp vốn cho Bộ phận/Phòng ban đầu tư nhằm mục đích tăng khả năng sử dụng, khai thác và đầu tư các tài sản nhận cấn trừ nợ.

      – Các TCTD cần chú trọng hơn vào biện pháp chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, thay vì chỉ tập trung vào các danh mục đầu tư tài chính, các TCTD cần thực hiện nghiên cứu nội dung kinh tế phát triển đầu tư hoạt động kinh doanh của các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, để có thể chủ động tham gia vào việc khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cùng với việc nâng cao chất lượng khi thẩm định hồ sơ cho vay.

      – Các TCTD cần xây dựng riêng cho mình đội ngũ chuyên gia về quản trị và tái cơ cấu DN vì việc chuyển nợ thành vốn góp và tham gia trực tiếp vào quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là cấp thêm vốn cho doanh nghiệp mà cần phải giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, “sống dậy” trở thành doanh nghiệp tốt. Do đặc thù của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại, xuất nhập khẩu có những điểm khác biệt so với hoạt động kinh doanh ngân hàng, các TCTD nếu không có sự chuẩn bị và đầu tư kỹ càng (đặc biệt là yếu tố con người) sẽ “lợi bất cập hại”, không những không “cứu” được doanh nghiệp mà còn tự làm khó mình khi nợ xấu không giảm mà còn tăng thêm. Đội ngũ chuyên gia về quản trị doanh nghiệp cùng với cán bộ ngân hàng trực tiếp thẩm định doanh nghiệp và cấp vốn vay khi đó sẽ tạo thành tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ giải quyết nợ xấu, chuyển nợ thành vốn góp và vực dậy các doanh nghiệp đứng bên bờ vực giải thể, phá sản của các TCTD.

      Để thực hiện điều này, trong ngắn hạn, các TCTD có thể thuê các chuyên gia có kinh nghiệm về quản trị doanh nghiệp để phối hợp cùng cán bộ ngân hàng tham gia tái cấu trúc lại các doanh nghiệp có khả năng khôi phục trở lại hoạt động. Tuy nhiên, trong dài hạn, các TCTD cần có cơ chế, chính sách tuyển dụng và đào tạo cán bộ, thành lập thêm các phòng ban chuyên biệt với chức năng chính là thực hiện việc quản trị, cấu trúc lại các doanh nghiệp do TCTD đã thực hiện chuyển nợ thành vốn góp.

      – Với kinh nghiệm tham gia chuyển đổi nợ thành vốn góp lâu năm, của DATC trong quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp, các TCTD cần xúc tiến việc hợp tác với DATC trong quá trình xử lý nợ. Trong quá trình hợp tác này, DATC sẽ phụ trách quá trình doanh nghiệp hoạt động và tìm kiếm các đối tác đầu tư, TCTD sẽ xem xét, thẩm định, cấp thêm vốn vay và/hoặc phối hợp cùng DATC trong việc góp vốn để giúp doanh nghiệp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh.

    Có thể thấy, việc chuyển nợ thành vốn góp gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp là một hướng đi mới trong việc xử lý triệt để nợ xấu và góp phần làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của nền kinh tế nói chung và của chủ nợ nói riêng. Biện pháp này tương đối lạ lẫm với các TCTD trong nước, tuy nhiên, hiệu quả xử lý nợ xấu thông qua việc chuyển nợ thành vốn góp bước đầu đã được ghi nhận. Nếu nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các cơ quan ban ngành, chuyển nợ thành vốn góp sẽ trở thành biện pháp xử lý nợ hiệu quả được các ngân hàng lựa chọn trong quá trình xử lý nợ xấu và tái cấu trúc lại hoạt động trong tương lai không xa.

     

    Tài liệu tham khảo:

    1. http://www.tapchitaichinh.vn/Tai-chinh-Kinh-doanh/Hoa-giai-no-xau-thanh-von-gop-Hieu-qua-da-ro-rang/30010.tctc

    2. http://www.tinmoi.vn/de-xuat-chuyen-no-xau-thanh-co-phan-01966882.html

    3.http://gafin.vn/20130109082516866p0c36/chuyen-no-xau-thanh-von-gop-tu-ly-thuyet-toi-thuc-hanh.htm

    4. http://hoidoanhnhan.vn/news_detail_hdn.php?id=7323

    5. http://database.cophieu68.vn/wap/news_detail.php?newsid=206661

     

    SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 7/2014

    Trích dẫn từ: Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

     

     

     
    8334 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #345800   21/09/2014

    luatsutraloi3
    luatsutraloi3
    Top 200
    Male
    Lớp 6

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:27/08/2014
    Tổng số bài viết (439)
    Số điểm: 7761
    Cảm ơn: 294
    Được cảm ơn 142 lần


    Những vấn đề cần chú ý trong việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam

     

    Xử lý nợ xấu là một bước đi quan trọng hàng đầu trong quá trình tái cấu trúc hoạt động ngân hàng. Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới cho thấy các nước thường triển khai theo những hướng cơ bản như sau:

                (i) Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn;

                (ii) Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company - AMC) để thu mua nợ xấu;

                (iii) Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và bên đi vay.

    Chính sách xử lý nợ qua bơm vốn là phương pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ cho các ngân hàng và định chế tài chính khác nhằm đối phó với khủng hoảng. Việc tạo ra một cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các TCTD và bên đi vay nhằm làm trung gian cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi vay thương lượng phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản, gia hạn hợp đồng, điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung đề cập đến những vấn đề cần lưu ý rút ra cho Việt Nam trong quá trình xử lý nợ xấu qua các công ty quản lý tài sản - là cách thức được áp dụng phổ biến tại các quốc gia trong quá trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng. Nhìn chung, việc thành lập các công ty quản lý tài sản trên thế giới được tổ chức theo 2 hình thức: tập trung hoặc phân tán.

    - Hình thức tập trung: Các khoản nợ xấu sẽ được tách khỏi bảng cân đối của ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được chuyển sang một công ty quản lý tài sản hoặc một cơ quan quản lý về thanh khoản ngân hàng để các đơn vị này phụ trách việc thu hồi các khoản nợ xấu. Công ty quản lý tài sản được thành lập dưới hình thức này trong giai đoạn đầu hoạt động chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.

    - Hình thức phân tán: Các khoản nợ xấu vẫn được giữ trên bảng cân đối của ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được xử lý bởi những đơn vị được thành lập trong chính ngân hàng. Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng các ngân hàng có đủ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động yếu kém để có thể thúc đẩy quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp đó; đồng thời, các ngân hàng cũng chính là chủ thể có nhiều động lực nhất để cố gắng thu hồi đến mức tối đa các khoản nợ xấu.

    Các nước thành lập AMC theo hình thức tập trung gồm có: Hàn Quốc, Séc, Mỹ…. Ðại diện các quốc gia áp dụng hình thức phân tán là Trung Quốc và Ba Lan. Hungary và Thái Lan là 2 nước sử dụng kết hợp cả 2 hình thức. Công tác xử lý nợ xấu tại Hungary đã áp dụng song song cả 2 loại hình AMC trên (một cơ quan thu hồi nợ xấu tập trung xử lý các khoản nợ lớn và phức tạp; phần còn lại do các ngân hàng tự giải quyết theo thỏa thuận của ngân hàng với Bộ Tài chính) trong khi Thái Lan sau khi thất bại với phương pháp phân tán đã thực hiện phương pháp tập trung.

     

    Những vấn đề cần lưu ý trong quá trình xử lý nợ xấu tại Việt Nam

    Trong giai đoạn tái cơ cấu khu vực ngân hàng bắt đầu vào những năm 2000, do hậu quả nặng nề của nền kinh tế tập trung, bao cấp và tác động không thuận lợi của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khó khăn và bộc lộ nhiều yếu kém. Trong đó nổi bật là tình hình tài chính không lành mạnh, tỷ lệ nợ xấu cao và tập trung tại các NHTM NN. Ðể khắc phục vấn đề này, về cơ bản Việt Nam cũng đã áp dụng các giải pháp truyền thống trong tiến trình xử lý nợ xấu như phần lớn các nước. Mô hình AMC sử dụng trong quá trình xử lý NPL là mô hình phân tán.

    Theo báo cáo tổng kết thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng, nhìn chung đến hết năm 2005, các NHTM đã xử lý được gần hết các khoản nợ xấu (95%), tuy nhiên đóng góp của các AMC trong quá trình tận thu hồi nợ thông qua việc bán, khai thác tài sản bảo đảm còn thấp (gần 20%), nợ xấu trong giai đoạn này chủ yếu được xử lý bằng nguồn vốn của Chính phủ và dự phòng rủi ro của các ngân hàng. Cho đến nay, các AMC vẫn tiếp tục được duy trì nhưng hoạt động cũng như cơ chế hoạt động của các đơn vị này chưa được phát huy triệt để. Ðây là điều cần phải được khắc phục để nâng cao tính hiệu quả và hợp lý trong sự tồn tại và hoạt động của các AMC.

    Khác với xuất phát điểm của chương trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng của những năm 2000, chương trình cải cách giai đoạn 2011 - 2015 được tiến hành đồng thời với chương trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các TCTD để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.

    Trong chương trình tái cơ cấu  giai đoạn 2011 - 2015, mặc dù nợ xấu của hệ thống các NHTM theo chuẩn kế toán Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn (3,14%) song vẫn cần thiết phải tập trung xử lý. Vì vậy, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước trong vấn đề xử lý nợ xấu cho thấy, để có thể thành công trong công tác xử lý nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng cần thiết phải chú trọng không chỉ vào các giải pháp vĩ mô (xác định cơ chế xử lý nợ trực tiếp, thông qua trung gian,…) mà còn tập trung vào các phương pháp xử lý vi mô (xử lý các khoản nợ xấu đã thu mua) với các vấn đề cần lưu ý như sau:

    1. Xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt động minh bạch, bình đẳng, thông suốt

    Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới đã cho thấy, để các AMC dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã mua, các quốc gia nên xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một thị trường mua bán và xử lý các tài sản xấu, tránh trường hợp khi muốn áp dụng một chính sách xử lý nợ lại gặp phải những cản trở về mặt pháp lý trong việc thực thi cũng như thu hút các nhà đầu tư như trường hợp của Trung Quốc. Tại thời điểm thực hiện chứng khoán hóa, do Trung Quốc thiếu một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện nên các dự án chứng khoán hóa phải được thực hiện trong khuôn khổ của Luật Ủy thác (Trust Law) được ban hành năm 2001 cho nên giải pháp này được xem là không mấy thành công.

    2. Các AMC phải được hình thành có định hướng và quyền lực rõ ràng

    - Nhiệm vụ, sứ mệnh của AMCs cần được nêu rõ ràng. Quyền lực của AMCs cần được giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định.

    - Cần xác định rõ thời gian hoạt động của AMC khi AMC được thành lập vì rõ ràng nếu không có 1 khoảng thời gian định trước, AMC có thể sẽ không có động cơ hoạt động hiệu quả (thu hồi nợ xấu càng nhanh thì cơ quan này càng nhanh chóng ngừng hoạt động).

    Nếu như không có định hướng hoạt động rõ ràng, hiệu quả của các AMC sẽ rất thấp, thậm chí còn thâm dụng vốn của Nhà nước. Trường hợp của Thái Lan là một bài học đáng lưu ý. Do việc xác định các mục tiêu hoạt động ban đầu của các AMC là không rõ ràng, không xác định rõ trách nhiệm ràng buộc nên mô hình các AMC phân tán mà Thái Lan áp dụng xử lý nợ xấu trong giai đoạn đầu tiên đã thất bại. Nợ xấu ở các AMC của ngân hàng tư nhân gần như không xử lý được, thậm chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các ngân hàng nhà nước, mục tiêu chủ yếu của chuyển hóa tài sản là cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng chứ không trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn lại của các khoản nợ xấu. Chính vì vậy mà  đến năm 2001, Thái Lan đã phải thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC).

    3. Xác định rõ các nguyên tắc - là chìa khóa thành công trong quá trình xử lý nợ xấu

    - Tách bạch các khách hàng có nợ xấu ra khỏi ngân hàng. Bởi vì hoạt động ngân hàng là hoạt động có quan hệ nên cần thiết phải thực hiện nguyên tắc này để ngăn chặn nợ xấu phát sinh.

    - Các ngân hàng có nợ xấu cần xử lý phải có các cam kết chặt chẽ trong việc tuân thủ các quy định tín dụng thận trọng sau khi được tái cấp vốn từ Chính phủ hoặc AMC.

    - Việc thành lập các AMCs cần phải được định hình rõ ràng là các công ty quản lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của hệ thống tài chính. Vì thế, cần phải có định hướng hoạt động cho các AMC trong tương lai theo hướng sẽ phát triển thành một ngân hàng đầu tư, một định chế tài chính như trường hợp của Mỹ và Hàn Quốc,… thay vì kết thúc hoạt động sau khi đã giải quyết ổn thỏa nợ xấu. Hơn nữa, cũng phải trao thêm quyền để thúc đẩy tính độc lập và chủ động của các AMC, đặc biệt là các AMC thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình hoạt động.

    4. Các giải pháp thực hiện giải quyết nợ xấu cần được lựa chọn phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính

    Trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay tại Mỹ hồi cuối những năm 1980, phương tiện chứng khoán hóa dường như là một cứu cánh tạo nên thành công của RTC nhưng biện pháp này không hẳn thành công ở tất cả các quốc gia Ðông Á và Ðông Âu do thị trường tài chính giữa Hoa Kỳ và các quốc gia này có sự chênh lệch về mức độ phát triển. Riêng Hàn Quốc, mặc dù quốc gia này chưa hình thành cho mình một thị trường mua bán tài sản rủi ro nhưng KAMCO sau đó đã xây dựng được một thị trường cho các khoản nợ xấu, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua bán và theo đó, thu hút được các nhà đầu tư trong nước. Nhờ đó, KAMCO đã thu hồi lại nhanh chóng một phần tiền Chính phủ đã bỏ ra cho hoạt động tái cơ cấu, đồng thời cũng góp phần làm tăng chiều sâu của thị trường tài chính của quốc gia này. Thêm vào đó, mặc dù muộn, nhưng Hàn Quốc cũng đã kịp thời ban hành các đạo luật chuẩn bị cho việc xử lý hiệu quả NPLs như Luật ABS, Luật Phá sản hợp nhất, và nhiều đạo luật bổ sung khác.

    5. Xây dựng một hệ thống thông tin minh bạch về các định chế tài chính trong nước cũng như tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin về các khoản nợ xấu sẽ giúp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu

    Hàn Quốc đã thành công trong việc xây dựng nên một thị trường cho việc mua đi bán lại các khoản nợ xấu là nhờ sự hoạt động tích cực của KAMCO với vai trò là người điều tiết và luân chuyển thông tin trên thị trường. Trước đó, sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước là rất thấp do các nhà đầu tư trong nước thiếu các thông tin về lịch sử hoạt động (Track record) cũng như các thông tin về tình hình tài chính của các tổ chức tài chính trong nước nhưng sau một thời gian, KAMCO đã lôi kéo được các nhà đầu tư nước ngoài và từ đó thu hút được các nhà đầu tư trong nước.

    Việc tiêu chuẩn hóa hệ thống công nghệ thông tin về các khoản nợ xấu từ trước sẽ giúp cho quá trình tập hợp đánh giá và quyết định mua cũng như lựa chọn các biện pháp xử lý nợ xấu của các AMC được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn. Trước khi khủng hoảng tài chính 1997 diễn ra, việc Hàn Quốc chưa xây dựng được hệ thống này cũng được đánh giá là một trở ngại cho việc tăng tốc độ xử lý nợ xấu của KAMCO.

    6. Tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển đúng mức, kịp thời; xây dựng môi trường kinh tế, chính trị ổn định với những cơ hội đầu tư hấp dẫn

    Ðối với trường hợp của Hàn Quốc, thành công của KAMCO so với các AMC tương tự được thành lập ở các nước khác là KAMCO được đánh giá là đã xây dựng thành công một thị trường cho các khoản nợ xấu, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua bán và theo đó, thu hút được các nhà đầu tư trong nước.

    Tuy nhiên, thành công này có được phải kể đến yếu tố môi trường chính trị xã hội mà KAMCO hoạt động. Là một đơn vị công độc quyền mua các tài sản nợ  xấu, ít nhất trong hai năm đầu hoạt động, KAMCO lẽ ra đã có thể trở thành một nơi chuyên chứa các khoản nợ xấu và là công cụ chính trị để hỗ trợ cho các nhóm lợi ích được lựa chọn. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của KAMCO phần lớn là nhờ môi trường kinh tế chính trị đặc biệt tại Hàn Quốc -  đó là môi trường mà lợi ích công được đặt lên hàng đầu, việc sử dụng công quỹ một cách có hiệu quả đã thấm nhuần trong ý thức và hành vi của từng người dân Hàn Quốc. Thêm vào đó, Hàn Quốc còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có IMF và WB.

    Ðối với trường hợp của Trung Quốc: Ðây là một trường hợp vẫn còn gây nhiều tranh cãi về mức độ thành công. Ðến năm 2004, các AMCs tại Trung Quốc mới chỉ xử lý được 675 tỷ NDT nợ xấu (tương đương 39% các khoản nợ xấu mà họ đã mua lại), tỷ lệ thu hồi tiền mặt (cash recovery rate) của các AMCs chỉ khoảng 20,3%. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân (chất lượng tài sản thấp, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, rủi ro đạo đức giữa các SOEs và AMCs). Nhưng vị thế ngày càng cao của các ngân hàng Trung Quốc sau khi được xử lý nợ xấu (dù các khoản nợ này vẫn còn nằm đâu đó trong nền kinh tế Trung Quốc) trên các bảng xếp hạng quốc tế là một thành công đáng kinh ngạc. Có ý kiến cho rằng sự thịnh vượng của nền kinh tế nước này dường như đã che khuất những kết quả thực sự của quá trình xử lý nợ xấu diễn ra trước đó.

     

    (Đào Thị Hồ Hương - Khoa Tài chính – Học viện Ngân hàng)

     

     
    Báo quản trị |