1. Việc làm của chính quyền địa phương trong trường hợp này là SAI
* Thẩm quyền giải quyết: theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai 2003
“1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.”
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân là UBND cấp huyện. Khi thu hồi đất, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải trực tiếp ra quyết định và không được ủy quyền. Như vậy, trong trường hợp này chỉ có UBND cấp huyện mới có quyền ra quyết định thu hồi đất nhà ông Toán.
Trong đề bài không nói rõ chính quyền địa phương là cơ quan nào, nếu đó là UBND xã thì chính quyền địa phương đã vi phạm thẩm quyền, và việc thu hồi đất đương nhiên là sai và không có hiệu lực.
Lưu ý: nếu UBND xã là cơ quan cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình khác theo dữ kiện đề bài thì cơ quan này cũng vi phạm thẩm quyền về việc cấp GCNQSDĐ theo quy định tại Điều 52 Luật Đất đai 2003.
* Việc chính quyền đại phương không cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Toán, trong khi đó lại tiếp tục cấp cho các hộ khác là Sai, bởi:
- Lời giải thích của chính quyền: “ Đây là dụ án chung không giải quyết một trường hợp cá nhân gia đình ông”.
+ Đối chiếu với các quy định tại Điều 38, Luật đất đai 2003 qui định những trường hợp thu hồi đất (từ khoản 2 đến khoản 12) ta thấy trường hợp của gia đình ông Toán không thuộc trường hợp nào cả.
+ Nếu trường hợp nhà ông Toán rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật đất đai 2003: “ Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”; ở đây chính quyền địa phương cũng đã trả lời ông Toán rằng: “Đây là dự án chung không giải quyết một trường hợp cá nhân gia đình ông”.
Nếu vậy thì khi chính quyền địa phương thu hồi đất của gia đình ông Toán thì phải thực hiện đúng trình tự theo Khoản 2 Điều 39 Luật đất đai 2003: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”. Nhưng câu trả lời ở đây chi là dự án chung chung, không có giấy tờ chứng minh, cũng không thông báo về phương án bồi thường, tái định cư,....Hơn nữa, việc trả lời này không có văn bản pháp lý cụ thể. Trong khi đó chính quyền địa phương đó lại tiếp tục cấp GCNQSDĐ cho các hộ khác, như vậy là vô lý bởi nếu đã là dự án chung thì không thể chỉ mình gia đình ông Toán bị thu hồi đất.
- Ta sẽ đi tìm hiểu đối với diện tích đất ở 290 m2, gia đình ông Toán đã sử dụng từ năm 1972 có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông hay không?
Theo đề ra, gia đình ông Toán sử dụng một mảnh đất ở 290 m2 từ năm 1972. Diện tích đất này, gia đình ông Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ quý 4 năm 1992 đến năm 2001. Tháng 8 năm 2003, gia đình ông Toán bị chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất này.
+ Gia đình ông Toán sử dụng mảnh đất ở 290m2 từ năm 1972 và diện tích đất này gia đình ông đã đóng thuế sử dụng đất cho Nhà nước từ quý 4 năm 1992 đến năm 2001, gia đình ông đã chấp hành nghiêm túc việc đóng thuế sử dụng đất cho Nhà nước từ quý 4/1992 phù hợp với khoảng thời gian bắt đầu có hiệu lực 1/10/1992 của Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992.
Đồng thời tại điểm a và điểm e khoản 2 Điều 3 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định “Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được căn cứ vào ngày tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau:
a. Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất
e. Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở.”
Gia đình ông Toán đã ở trên mảnh đất này từ năm 1972 đến nay, chắc chắn đã phải đăng kí hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở. Vậy ông chắc chắn phải có giấy tờ quy định ở điểm e. Hơn nữa, qua những lần nộp thuế sử dụng đất ông Toán sẽ được phát biên lai nộp thuế nhà đất.
Như vậy hai loại giấy tờ trên được coi là giấy tờ hợp lệ, và là căn cứ xem xét cho ông Toán được cấp GCNQSDĐ.
+ Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.”
Từ tất cả những lý do trên ta có thể khẳng định việc làm của chính quyền địa phương là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật.
2, Nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai phạm thì Nhà nước có biện pháp xử lý cụ thể ra sao để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật?
- Sai phạm thứ nhất là vi phạm quy định về thu hồi đất: Khoản 1, Điều 172 Nghị định 181/2004/NĐ- CP ngày 29/10/2004 qui định:
“a) Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai; không công khai phương án bồi thường, tái định cư;
b) Thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức bồi thường cho người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu hồi đất; xác định sai vị trí và diện tích đất bị thu hồi trên thực địa;
c) Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy
hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt.”
Thì theo khoản 2 Điều này, hình thức xử lý kỷ luật được quy định như sau:
“a) Có hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo, cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch;
b) Có hành vi quy định tại điểm b khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc;
c) Có hành vi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ ngạch; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc”.
- Sai phạm thứ hai là vi phạm quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất khi không công bố hoặc công bố chậm sử dụng đất, kế hoạch sử đụng đất chi tiết thì theo điểm a, khoản 2, Điều 170 của NĐ 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 cũng sẽ bị khiển trách; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
- Sai phạm thứ ba là người quản lí vi phạm pháp luật về đất đai: Căn cứ điều 141 Luật đất đai 2003 và khoản 2 Điều 2 NĐ 105/2009/NĐ-CP ngày 11/1/2009 qui định: “Cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai; trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Khoản 1, Điều 144 Luật đất đai năm 2003 cũng quy định cụ thể về xử lý trách nhiệm của thủ trưởng, công chức, viên chức, thuộc cơ quan quản lý đất đai các cấp, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, trong việc vi phạm trình tự thực hiện các thủ tục hành chính: “1, Tổ chức, cá nhân khi phát hiện công chức, viên chức... thì gửi kiến nghị đến Chủ tịch UBND cùng cấp.”
3, Tư vấn cho ông Toán để ông có thể tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước pháp luật.
Thứ nhất: ông Toán cần phải chứng minh mảnh đất ông đang sử dụng là hoàn toàn hợp pháp. Gia đình ông cần làm hồ sơ gửi lên UBND cấp huyện để xin được cấp GCNQSDĐ theo trình tự và thủ tục qui định tại Điều 136 NĐ 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 và Điều 123 Luật đất đai 2003.
Thứ hai: Việc chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi đối với mảnh đất ông Toán là sai vì vậy theo Khoản 2 Điều 17 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 đã sửa đổi, bổ sung) và khoản 1 điều 138 luật đất đai 2003 quy định: “Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi vi phạm hành chính về quản lý đất đai”, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài liệu đó; mặt khác theo điểm a khoản 1 Điều 162 NĐ 181/2004/NĐ-CP thì quyết định thu hồi đất thuộc loại quyết định hành chính, nên ông Toán có quyền khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất của chính quyền địa phương.
Ông Toán phải thực hiện việc khiếu nại trong thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thu hồi đất (điểm 3 khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003). Do đối tượng của việc khiếu nại của ông Toán là quyết định thu hồi đất của chính quyền địa phương nên ông Toán sẽ làm hồ sơ khiếu nại (1 bộ) và gửi trực tiếp lên bộ phận tiếp dân của UBND xã. Hồ sơ gồm các loại giấy tờ như sau: Đơn khiếu nại; Bản sao quyết định thu hồi đất của UBND xã; Các loại tài liệu mà ông Toán cho rằng đó là căn cứ đê ông được quyền sử dụng mảnh đất này do đó sẽ được đền bù khi có quyết định thu hồi đất; Bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ông Toán (có công chứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền); Bản kê khai các loại tài liệu nộp kèm theo đơn khiếu nại (ghi rõ bản chính, bản sao). Yêu cầu UBND bồi thường thiệt hại(nếu có). Nộp lệ phí (nếu có)
Sau đó chuyển đơn thư – hồ sơ tố cáo cho Tổ tiếp nhận và trả lại kết quả hồ sơ (tổ tiếp nhận) tại Phòng Thanh tra tiếp nhận
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Chủ tịch UBND huyện thụ lý và giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện phải được công bố công khai và gửi cho ông Toán người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (khoản 2 Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP).
Trường hợp ông Toán vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết của chủ tịch UBND huyện, thì trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, ông Toán có quyền khởi kiện tại TAND hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh (khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003). Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh thì trong hồ sơ ông Toán gửi lên ngoài các loại giấy tờ như trên, còn phải có thêm quyết định gải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND huyện; và quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng.
- Lưu ý thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính.
- Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
(Luật khiếu nại tố cáo 1998)
- Ngoài ra, trong trường hợp nhận được phương án đền bù, giải tỏa và quyết định thu hồi đất của UBND huyện nhưng gia đình bạn có căn cứ cho rằng mức đền bù chưa thỏa đáng hoặc quyết định thu hồi đất không có cơ sở, thì gia đình bạn cũng có quyền khiếu nại đến chủ tịch UBND huyện để được giải quyết.