Một người say rượu chạy xe (ô tô, xe máy...) nói chung là phương tiện giao thông đường bộ mà đụng chết người - Đây là "tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"
Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ
1. Người nào điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây
thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản
của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng
lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do
dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn
tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của
người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm
trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm.
Trường hợp bạn hỏi không rõ là người chạy xe đã đủ tuổi chịu TNHS chưa, nếu người từ đủ 14-16 tuổi cũng không phải chịu TNHS. Dưới 14 tuổi thì không phải chịu TNHS bất cứ tội gì.
Nếu người đó hoàn toàn BT và trên 16 tuổi thì vẫn chịu TNHS và trong trường hợp này thì theo như quy định của khoản 2 điều 202_BLHS.
Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn,
làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt
quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp bị
kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người
khác gây ra;
e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà
không phải do mình tự gây ra;
g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
h) Phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng;
i) Phạm tội vì bị người khác đe
doạ, cưỡng bức;
k) Phạm tội do lạc hậu;
l) Người phạm tội là phụ nữ có
thai;
m) Người phạm tội là người
già;
n) Người phạm tội là người có bệnh
bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
o) Người phạm tội tự thú;
p) Người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải;
q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ
các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;
r) Người phạm tội đã lập công
chuộc tội;
s) Người phạm tội là người có
thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.
2. Khi quyết định hình phạt, Toà
án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ
trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được
Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi
là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Bạn hãy tham khảo
các điều luật trên trong Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 do Quốc Hội ban hành ngày
21/12/1999 để biết. Trường hợp cụ thể hơn bạn có thể cung cấp thông tin để hỏi
lại hoặc liên lạc với tôi qua điện thoại số: 0988 676 699 hoặc số: 042 932 135
Chúc Bạn thành công
trong cuộc sống.
Chào thân ái.