Theo Điều 624 Bộ Luật Dân Sự 2015 (BLDS 2015) qui định “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Vậy mục đích lập di chúc là nhằm dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Vậy có thể hiểu rằng theo lẽ thường một di chúc hợp pháp có hiệu lưc kể từ thời điểm mở thừa kế.
Tuy nhiên, trên thực tế khi tiến hành lập di chúc người để lại di chúc vì lý do nào đó chưa muốn người được hưởng di chúc hưởng toàn bộ di sản ngay khi mở thừa kế mà muốn người hưởng thừa kế chỉ được hưởng di sản khi đạt được, làm được một số điều kiện mà người lập di chúc đặt ra (làm một số nghĩa vụ nhất định, đạt được những điều kiện nhất định). Khi đó di chúc trở thành di chúc có điều kiện.
Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề Di chúc có điều kiện mà hiện nay chỉ có quy định về vấn đề di chúc có chỉ định phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì những người thừa kế sẽ phải sử dụng đúng mục đích thờ cúng, không được chia thừa kế. Cụ thể, Khoản 1 Điều 645 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.”
Do vậy, việc muốn ràng buộc điều kiện với những người thừa kế thì chỉ được áp dụng đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Ngoài ra, cần phải xác định tính hợp pháp của bản di chúc thì mới có thể thực hiện việc chia thừa kế.
Điều 630 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Theo đó, người lập di chúc muốn sau khi chết sẽ giao cho con trai nhà ở và đất ở với điều kiện dùng vào thờ cúng, đồng thời giao cho con trực tiếp thực hiện việc thờ cúng và được ở trên nhà đất này thì con trai đó sẽ không được chuyển nhượng cho người khác. Trường hợp này được quy định cụ thể tại điều luật ở trên
Như vậy trong trường hợp nội dung của di chúc này, nếu sau khi người lập di chúc chết thì người được hưởng theo di chúc không được chuyển nhượng nhà đất này thì trong di chúc đã nêu rõ nhà đất để lại sẽ được dùng vào việc thờ cúng và giao nhà đất này cho người được hưởng theo di chúc quản lý.
Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377
Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.