Chào bạn,
Tình huống của bạn có thể giải quyết thế này.
Ngày 10/9/1990, pháp lệnh về thừa kế có hiệu lực thi hành. Do vậy, nếu vợ chồng ông A chết trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu thừa kế tính từ ngày 10/9/1990. Nếu vợ chồng ông A chết từ sau ngày 10/9/1990 thì thời hiệu thừa kế tính từ ngày chết.
Thời hiệu thừa kế theo pháp lệnh thừa kế, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 đều là 10 năm. Vụ việc của bạn, thời hiệu thừa kế cũng là 10 năm nhưng cách tính như sau:
Thời hiệu thừa kế trường hợp của bạn được tính trừ cho khoảng thời gian 10 năm 2 tháng (từ 01/7/1996 đến 01/09/2006), đây là khoảng thời gian Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Quốc hội quy định về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia thì không tính vào thời hiệu thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch về nhà ở được xác lập trước ngày 01.7.1991. Như vậy, thời hạn khởi kiện chia thừa kế của các đồng thừa kế của vợ chồng ông A từ 10/9/1990 đến 1/7/1996 là 5 năm 9 tháng 21 ngày; cộng thêm 4 năm 2 tháng 9 ngày từ ngày 01/9/2006, tức là đến ngày 10/11/2010 là hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế.
Tính cho đến nay, năm 2011, thì đã quá 10 năm thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của các thừa kế của vợ chồng ông A như cách tính như trên. Căn cứ vào điểm a mục 2.4 phần 2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (NQ 02) thì “sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”. Như vậy, người con vợ chồng ông A có thể khởi kiện và yêu cầu chia di sản của cha mẹ để lại theo chế định chia tài sản chung. Lúc này, người con vợ chồng ông A cần lưu ý:
a.1. Trường hợp vợ chồng ông A có di chúc mà các con (đồng thừa kế) không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp vợ chồng ông A không có di chúc mà các con (đồng thừa kế) thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp vợ chồng ông A không có di chúc và các con (đồng thừa kế) không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
Lúc này, người con của vợ chồng A có được xác lập quyền sở hữu về nhà ở (do thừa kế) được hay không thì phải áp dụng Điều 126 Luật Nhà ở sửa đổi, bổ sung năm 2009 để giải quyết. Cụ thể, Điều 126 quy định:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:
a) Người có quốc tịch Việt Nam;
b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.
2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.”
Việc xác định nhằm chứng minh đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở (NO) tại Việt Nam cần tham khảo Điều 66, Điều 67 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở. Cụ thể:
Điều 66
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu NO tại Việt Nam theo quy định tại Điều 1 của Luật số 34/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật NO và Điều 121 của Luật Đất đai phải có các giấy tờ sau đây để chứng minh về đối tượng:
a) Đối với người có quốc tịch Việt Nam thì phải có hộ chiếu Việt Nam còn giá trị; trong trường hợp mang hộ chiếu nước ngoài thì phải có một trong các giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật về quốc tịch;
b) Đối với người gốc Việt Nam thì phải có hộ chiếu nước ngoài kèm theo giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp để chứng minh có gốc Việt Nam.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng dưới đây thì có quyền sở hữu (không hạn chế số lượng NO tại Việt Nam) thông qua hình thức mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi NO hoặc được nhận chuyển nhượng QSD đất ở trong DA phát triển NO của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (đối với DA tại các khu vực được phép chuyển nhượng QSD đất dưới hình thức bán nền theo quy định của pháp luật về đất đai) để người muaXD NO cho bản thân và các thành viên trong gia đình tại Việt Nam:
a) Các đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
b) Các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này nhưng phải thuộc một trong các diện:
- Người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư có Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp;
- Người có công đóng góp với đất nước, bao gồm: người được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng có giấy tờ chứng minh được hưởng chế độ ưu đãi do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp; người có thành tích đóng góp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,XD đất nước được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương, Huy chương, được Thủ tướng CP tặng Bằng khen; người tham gia vào Ban Chấp hành các tổ chức chính trị - XH của Việt Nam; của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên được các tổ chức này xác nhận; người được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương hội, người là nòng cốt các phong trào, tổ chức của kiều bào có quan hệ với trong nước và người có những đóng góp, giúp đỡ tích cực cho các cơ quan đại diện hoặc các hoạt động đối ngoại của Việt Nam ở nước ngoài được Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài xác nhận;
- Nhà văn hóa, nhà khoa học, bao gồm: người được phong học hàm, học vị về khoa học, giáo dục, văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao của Việt Nam hoặc của nước ngoài, các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - XH đang làm việc tại Việt Nam. Các đối tượng này phải được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Thủ trưởng các trường đại học, cao đẳng, học viện, viện nghiên cứu của Việt Nam mời về làm chuyên gia, cộng tác viên, giảng dạy và có xác nhận của cơ quan, tổ chức mời về việc đối tượng này đang làm việc tại cơ quan, tổ chức đó;
- Người có chuyên môn, kỹ năng đặc biệt có giấy xác nhận về chuyên môn, kỹ năng của hiệp hội, hội nghề nghiệp Việt Nam hoặc của cơ quan cấp Bộ phụ trách lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng kèm theo giấy phép hành nghề chuyên môn tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (đối với trường hợp pháp luật yêu cầu phải có giấy phép hành nghề) hoặc Giấy phép lao động do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (đối với trường hợp pháp luật không yêu cầu phải có giấy phép hành nghề);
- Người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước có giấy tờ chứng nhận kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài cấp kèm theo hộ khẩu thường trú và giấy chứng minh nhân dân của một bên vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam ở trong nước.
Đối với trường hợp có các giấy tờ do nước ngoài cấp thì phải dịch ra Tiếng Việt và có chứng nhận của cơ quan công chứng của Việt Nam.
3. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài gốc Việt Nam nhưng không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này nếu có giấy tờ quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và Giấy miễn thị thực do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp thì có quyền sở hữu một NO riêng lẻ hoặc một căn hộ CCtại Việt Nam.
Trường hợp đối tượng này đang có sở hữu NO tại Việt Nam mà được thừa kế hoặc được tặng cho NO khác thì chỉ được chọn sở hữu một nhà ở; đối với NO còn lại thì được quyền tặng cho hoặc bán cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu NO tại Việt Nam để hưởng giá trị theo quy định tại Điều 72 của NĐ này.”
Cập nhật bởi thuhau ngày 22/04/2011 10:53:51 AM
Bổ sung