Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 02/2014/KDTM-GĐT ngày 09-01-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” tại tỉnh Bình Dương giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh khu công nghiệp Bình Dương với bị đơn Công ty TNHH Ngọc Quang; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực, ông Phạm Hoàng Tuấn, bà Chung Ngọc Nghĩa, ông Phạm Hoàng Khánh, ông Phạm Hoàng Thọ, bà Phạm Thị Hoàng Yến, bà Phạm Thị Hoàng Oanh.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 10 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ (Sự kiện pháp lý):
Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được ký kết trên cơ sở tự nguyện, người ký hợp đồng đúng thẩm quyền đã được công chứng theo đúng quy định của pháp luật, tuy không được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật nhưng là tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó vẫn có hiệu lực pháp luật giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp ngay cả khi chưa được đăng ký giao dịch bảo đảm.
Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ:
- Khoản 1 Điều 16 Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19-11-1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm;
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng thế chấp tài sản”; “Có hiệu lực pháp luật”; “Đăng ký giao dịch bảo đảm”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 26-6-2008 và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy:
Ngân hàng công thương Việt Nam (nay là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam) - Chi nhánh khu công nghiệp Bình Dương (sau đây gọi tắt theo tên giao dịch là VietinBank) và Công ty TNHH Ngọc Quang (sau đây gọi tắt là Công ty Ngọc Quang) ký kết nhiều hợp đồng tín dụng; tính đến năm 2006, hai bên xác nhận còn lại 13 hợp đồng tín dụng quá hạn chưa thanh toán với tổng số tiền nợ gốc là 12.264.300.000 đồng. Để đảm bảo cho các khoản vay của 13 Hợp đồng tín dụng này, hai bên đã ký kết 09 Hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh gồm:
(1)- Hợp đồng cầm cố tài sản số 01.035/HĐCCTS ngày 14-3-2001. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang cầm cố cho VietinBank các tài sản gồm: máy phát điện, dây chuyền sản xuất bột mỳ do Trung Quốc sản xuất công suất 80 tấn với tổng giá trị là 3.200.740.400 đồng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi... của Công ty Ngọc Quang tại các hợp đồng tín dụng ký với VietinBank, tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 1.950.000.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 14-3-2001.
(2)- Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.0034/HĐTC ngày 21-02-2002. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang dùng tài sản là 6.012 m2 đất tại khu công nghiệp Đồng An, xã Bình Hòa, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 070107 do UBND tỉnh Bình Dương cấp cho Công ty Ngọc Quang ngày 08-8-2000 và toàn bộ tài sản gắn liền với đất (có hợp đồng thế chấp cầm cố riêng) có giá trị quyền sử dụng đất là 2.306.000.000 đồng thế chấp cho VietinBank để bảo đảm cho khoản vay với tổng dư nợ tối đa là 1.490.000.000 đồng. Việc thế chấp này được Sở Địa chính tỉnh Bình Dương xác nhận về điều kiện thế chấp ngày 22-2-2002.
(3)- Hợp đồng cầm cố tài sản số 02.0057/HSSCCTS ngày 25-3-2002. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang dùng tài sản là dây chuyền sản xuất bột mỳ trị giá 5.414.000.000 đồng cầm cố cho VietinBank để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán nợ tại các hợp đồng tín dụng mà Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank với tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 3.500.000.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 26-3-2002.
(4)- Hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản số 02.00098 ngày 03-5-2002. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang dùng tài sản là 01 dây chuyền sản xuất bột mỳ của Trung Quốc sản xuất theo tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu số 21/GQII/NĐ ngày 25-12-1998 trị 5.000.000.000 đồng cầm cố cho VietinBank để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo các hợp đồng tín dụng mà Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank, với tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 3.500.000.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 03-5-2002.
(5)- Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang dùng tài sản là nhà xưởng, kho, văn phòng, nhà bảo vệ, nhà vệ sinh, nhà nghỉ, nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ thuộc sở hữu của Công ty Ngọc Quang gắn liền với 6.012 m2 đất tại Khu công nghiệp Đồng An với tổng giá trị là 3.514.000.000 đồng thế chấp cho VietinBank để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ tại các hợp đồng tín dụng mà Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank, tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 2.284.100.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 27-5-2003.
(6)- Hợp đồng cầm cố tài sản số 03.00154/HĐCC ngày 27-5-2003. Theo hợp đồng, Công ty Ngọc Quang dùng các tài sản gồm trạm điện (gồm đường dây... nổi, trạm điện...), cân ô tô điện tử và cân bàn băng tải đặt tại kho của Công ty Ngọc Quang tại KCN Đồng An, Bình Dương trị giá 2.095.000.000 đồng cầm cố cho VietinBank để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ tại các Hợp đồng tín dụng mà Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank, tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 136.175.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 27-5-2003.
(7)- Hợp đồng bảo lãnh số 03.00355/HĐBL ký ngày 11-8-2003. Theo hợp đồng, bà Chung Ngọc Nghĩa dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà là 07 xe ô tô tải chở hàng gồm 04 xe hiệu HINO, 02 xe hiệu HUYNDAI, 01 xe hiệu DAEWOO tổng giá trị là 1.085.000.000 đồng để bảọ lãnh cho Công ty Ngọc Quang vay của VietinBank theo các hợp đồng tín dụng với tổng số tiền là 700.000.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 11-8-2003 và đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 26-7-2007.
(8)- Hợp đồng bảo lãnh số 04.00189/HĐBL ngày 25-11-2004. Theo hợp đồng, bà Chung Ngọc Nghĩa, ông Phạm Hoàng Khánh, ông Phạm Hoàng Tuấn, ông Phạm Hoàng Thọ, bà Phạm Thị Hoàng Yến, bà Phạm Thị Hoàng Oanh dùng tài sản là nhà và đất tại địa chỉ 74/2 Nguyễn Thị Nhỏ, Phường 9, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh trị giá 600.000.000 đồng thế chấp cho VietinBank để bảo lãnh cho Công ty Ngọc Quang vay theo Hợp đồng tín dụng số 04.00494/HĐTD.TL ngày 27-10-2004 với tổng số tiền là 1.820.000.000 đồng (BL33). Hợp đồng này được công chứng ngày 25-11-2004.
(9)- Hợp đồng bảo lãnh số 05.00273/HĐBL ký ngày 03-10-2005. Theo hợp đồng, ông Phạm Hoàng Tuấn và bà Nguyễn Thu Chinh dùng tài sản là quyền sử dụng 5.250 m2 đất tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 115/QSDĐ/CQ của UBND huyện Củ Chi cấp cho ông Phạm Hoàng Tuấn và bà Nguyễn Thu Chinh trị giá 630.000.000 đồng thế chấp cho VietinBank để bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ theo các hợp đồng tín dụng mà Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank tối đa là 440.000.000 đồng. Hợp đồng này được công chứng ngày 04-10-2005 và đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 06-10-2005.
Đến hạn thanh toán, do Công ty Ngọc Quang không thanh toán được nợ của các hợp đồng tín dụng, ngày 13-10-2006, VietinBank đã khởi kiện ra Tòa án với yêu cầu buộc Công ty Ngọc Quang thanh toán nợ, nếu không thanh toán được thì yêu cầu xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để thu hồi nợ. Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý vụ án, ngày 15-12-2006, VietinBank có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và được Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương ra quyết định kê biên toàn bộ tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất của Công ty Ngọc Quang. Thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương đã lập biên bản kê biên toàn bộ tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất của Công ty Ngọc Quang giao cho VietinBank quản lý. Ngày 23-4-2007, do VietinBank rút đơn khởi kiện nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và ngày 24-4-2007 ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngày 5-11-2007, Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương ra Quyết định số 06/QĐ-THA và số 07/QĐ-THA thu hồi một phần Biên bản kê biên ngày 05-4-2005 và hủy Biên bản kê biên ngày 05-4-2006 của Chấp hành viên Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương. Sau đó, VietinBank căn cứ vào điều khoản về “Xử lý tài sản cầm cố” và “Xử lý tài sản thế chấp” trong các hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản của Công ty Ngọc Quang (cụ thể: Hợp đồng cầm cố tài sản số 01.035/HĐCCTS ngày 14-3-2001; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002; Hợp đồng cầm cố tài sản
số 02.00057/HĐCCTS ngày 25-3-2002; Hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản
số 02.00098 ngày 03-5-2002; Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003; Hợp đồng cầm cố tài sản số 03.00154/HĐCCTS ngày 27-5-2003) để tự mình bán các tài sản đã cầm cố, thế chấp theo các hợp đồng nói trên cho Công ty cồ phần cơ khí Đồng Lực thu được 10.050.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán tài sản đã thanh toán cho một số hợp đồng tín dụng ký kết với Công ty Ngọc Quang, nhưng Công ty Ngọc Quang vẫn còn nợ tiền của 05 hợp đồng tín dụng gồm:
(1) Hợp đồng tín dụng số 04.00494/HĐTD.TL ngày 27-10-2004: Số tiền vay 6.000.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng, lãi suất cho vay 0,85%/tháng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này gồm các tài sản cầm cố, bảo lãnh theo các Hợp đồng cầm cố tài sản số 04.00243/HĐCC ngày 26-10-2004; số 04.00189/HĐBL ngày 25-11-2004 và số 04.00190/HĐBL ngày 25-11-2004. Công ty Ngọc Quang đã thanh toán được 1.140.000.000 đồng gốc và tiền lãi tính đến tháng 01-2006. Do Công ty Ngọc Quang không thanh toán đủ nợ gốc và lãi còn lại cho VietinBank nên ngày 28-12-2007, VietinBank đã bán tài sản bảo đảm của Công ty Ngọc Quang cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực thu hồi một phần nợ gốc là 3.660.000.000 đồng. Tính đến ngày 29-02-2008, Công ty Ngọc Quang còn nợ VietinBank 1.200.000.000 đồng nợ gốc và 1.433.661.000 đồng tiền lãi quá hạn của hợp đồng này.
(2) Hợp đồng tín dụng số 05.00342/HĐTD.TL ngày 17-5-2005: Số tiền vay 958.000.000 đồng, thời hạn vay 09 tháng, lãi suất 0,85%/tháng. Công ty Ngọc Quang đã trả đủ tiền lãi đến tháng 01-2006. Sau đó, Công ty Ngọc Quang không thanh toán nợ gốc và lãi cho VietinBank. Ngày 27-9-2007, VietinBank đã bán tài sản của Công ty Ngọc Quang cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực thu hồi được 958.000.000 đồng nợ gốc; còn nợ tiền lãi quá hạn phát sinh tính đến ngày 09-5-2008 là 250.941.249 đồng.
(3) Hợp đồng tín dụng số 05.00473/HĐTD.TL ngày 29-6-2005: Số tiền vay là 260.000.000 đồng, thời hạn vay 10 tháng, lãi suất 0,85%/tháng. Công ty Ngọc Quang đã trả đủ tiền lãi đến tháng 01-2006. Sau đó, Công ty Ngọc Quang không thanh toán nợ gốc và lãi cho VietinBank. Ngày 28-12-2007, Vietinbank đã bán tài sản của Công ty Ngọc Quang cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực thu hồi 260.000.000 đồng nợ gốc của hợp đồng này, Công ty Ngọc Quang còn nợ tiền lãi quá hạn phát sinh tính đến ngày 29-5-2008 là 73.114.167 đồng.
(4) Hợp đồng tín dụng số 05.00481/HĐTD.TL ngày 05-7-2005: Số tiền vay 495.000.000 đồng, thời hạn vay 10 tháng, lãi suất cho vay 0,85%/tháng. Công ty Ngọc Quang đã trả lãi đến tháng 01-2006. Sau đó, Công ty Ngọc Quang không trả được nợ gốc và lãi. VietinBank đã bán tài sản của Công ty Ngọc Quang cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực thu hồi 495.000.000 đồng nợ gốc của hợp đồng này; Công ty Ngọc Quang còn nợ tiền lãi quá hạn phát sinh tính đến ngày 29-5-2008 là 138.707.250 đồng.
(5) Hợp đồng tín dụng số 05.00645/HĐTD.TL ngày 04-10-2005: số tiền vay 350.000.000 đồng, thời hạn vay 10 tháng, lãi suất 0,95%/tháng. Công ty Ngọc Quang trả lãi đến tháng 01-2006. Sau đó, Công ty Ngọc Quang không thanh toán được các khoản nợ gốc và lãi. VietinBank đã chuyển nợ quá hạn từ ngày 08-8-2006.
Tài sản bảo đảm cho các khoản vay tại các Hợp đồng tín dụng số 05.00342/HĐTD.TL ngày 17-5-2005, số 05.00473/HDTD.TL ngày 29-6-2005, số 05.00481/HĐTD.TL ngày 05-7-2005 và số 05.00645/HĐTD.TL ngày 04-10-2005 gồm các tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, gồm các Hợp đồng số 01.035/HĐCC ngày 14-3-2000, số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002, số 0200057/HĐCCTS ngày 25-3-2002, số 02.00098/HĐCCTS ngày 03-05-2002, số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003, số 03.00154/HĐCC ngày 27-5-2005 và số 03.00335/HĐBL ngày 11-8-2003. Riêng Hợp đồng tín dụng số 05.00645/HĐTD.TL ngày 04-10-2005 còn được bảo đảm bằng tài sản là quyền sử dụng đất theo Hợp đồng bảo lãnh tài sản số 05.00273/HĐBL ngày 03-10-2005.
Tổng số tiền nợ (gốc và lãi) chưa thanh toán của 05 hợp đồng tín dụng nêu trên là 5.273.000.000 đồng.
Sau khi tự mình xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của Công ty Ngọc Quang để thu hồi nợ, ngày 26-8-2008, VietinBank tiếp tục khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Ngọc Quang thanh toán cho VietinBank số tiền 5.273.000.000 đồng này.
Bị đơn là Công ty Ngọc Quang do ông Phạm Hoàng Tuấn, Giám đốc Công ty trình bày: Công ty Ngọc Quang thừa nhận có ký các hợp đồng tín dụng như đại diện VietinBank trình bày. Công ty có thế chấp nhà xưởng và máy móc thiết bị của Công ty để vay tiền VietinBank; đồng thời, bà Chung Ngọc Nghĩa (mẹ ông Tuấn) và ông Tuấn, bà Nguyễn Thu Chinh (vợ ông Tuấn) có ký các hợp đồng bảo lãnh cho Công ty Ngọc Quang vay tiền của VietinBank. Từ năm 2006, Công ty Ngọc Quang lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nên bị VietinBank khởi kiện đòi nợ tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Ngày 26-10-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý vụ án. Ngày 23-4-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương ra quyết định đình chỉ xét xử vụ án với lý do VietinBank rút đơn khởi kiện và tự xử lý tài sản thế chấp của Công ty Ngọc Quang bằng hình thức bán toàn bộ nhà xưởng, máy móc thiết bị của Công ty Ngọc Quang cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực mà không thông báo cho Công ty Ngọc Quang biết. Hậu quả là toàn bộ tài sản của Công ty kể cả những tài sản không thuộc diện thế chấp, cầm cố và toàn bộ hồ sơ, sổ sách của Công ty cũng được bàn giao cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực. Việc làm này của VietinBank đã vi phạm pháp luật về xử lý tài sản thế chấp và xâm phạm đến quyền sở hữu của Công ty Ngọc Quang. Công ty Ngọc Quang không trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho VietinBank nhưng việc xử lý tài sản thế chấp là do Tòa án quyết định, VietinBank không được quyền tự ý xử lý.
Nay, Công ty Ngọc Quang không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VietinBank vì số tiền nợ nêu trên là do VietinBank tự tính toán trên cơ sở tự xử lý tài sản của Ngọc Quang. Ngày 02-3-2009, Công ty Ngọc Quang còn có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án tuyên bố các hợp đồng mua bán tài sản của Công ty Ngọc Quang giữa VietinBank và Công ty Đồng Lực là vô hiệu để khôi phục tình trạng sở hữu ban đầu của Công ty Ngọc Quang.
Công ty Ngọc Quang đã mất khả năng thanh toán nợ nên sẽ bán tài sản để thanh toán toàn bộ các khoản nợ cho VietinBank theo tất cả các hợp đồng tín dụng đã ký kết hoặc xử lý tài sản thế chấp theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Hiện nay, Công ty Ngọc Quang chưa xác định chính xác những thay đổi, thất thoát và thiệt hại về tài sản do việc VietinBank bán tài sản cho Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực nên chưa có yêu cầu về khôi phục tài sản một cách chi tiết và bồi thường thiệt hại. Việc này sẽ do các bên tự thực hiện khi xử lý tài sản thế chấp lại hoặc Công ty Ngọc Quang sẽ khởi kiện tại một vụ kiện khác nếu các bên đương sự không thương lượng được với nhau. Buộc VietinBank phải trả toàn bộ hồ sơ, tài liệu, sổ sách, hóa đơn cho Công ty Ngọc Quang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Hoàng Tuấn (đồng thời là đại diện hợp pháp của bà Chung Ngọc Nghĩa, ông Phạm Hoàng Khánh, ông Phạm Hoàng Thọ, bà Phạm Thị Hoàng Yến và bà Phạm Thị Hoàng Oanh) có yêu cầu độc lập, trình bày:
Theo Hợp đồng tín dụng số 04.00494/HĐTD.TL ngày 27-10-2004 thì ngày đến hạn thanh toán nợ cuối cùng là 25-8-2005. Sau ngày 25-8-2005, Công ty Ngọc Quang không thanh toán, nhưng VietinBank cũng không thông báo cho người bảo lãnh biết để giải quyết và người bảo lãnh cũng không ký gia hạn hợp đồng bảo lãnh hoặc ký thêm hợp đồng bảo lãnh mới. Căn cứ vào Bộ luật dân sự về thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hiệu khởi kiện là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp.
Trong trường hợp cụ thể này, thời hiệu khởi kiện của VietinBank để tranh chấp hợp đồng bảo lãnh là 02 năm kể từ ngày 25-8-2005 (ngày Công ty Ngọc Quang mất khả năng thanh toán) đến ngày 25-8-2007. Tuy nhiên, VietinBank nộp đơn khởi kiện tại Tòa án ngày 26-6-2008 là đã hết thời hiệu khởi kiện. Nghĩa vụ bảo lãnh của bà Chung Ngọc Nghĩa bằng tài sản là căn nhà 74/2 Nguyễn Thị Nhỏ, Phường 9, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã hết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đồng Lực (Công ty Đồng Lực) trình bày: Công ty Đồng Lực ký Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất thuê ngày 08-12-2007 và Hợp đồng mua bán tài sản ngày 08-12-2007 với VietinBank. Hai hợp đồng này đều được công chứng tại Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình Dương vào ngày 10-12-2007. Thực hiện hợp đồng, Công ty Đồng Lực đã mua của VietinBank những tài sản sau: toàn bộ tài sản gồm nhà xưởng, nhà văn phòng và các công trình xây dựng khác gắn liền với 6.012 m2 đất thuê của Nhà nước với giá 7.800.000.000 đồng và 03 dây chuyền sản xuất bột mì do Trung Quốc sản xuất với giá 2.250.000.000 đồng, tổng giá trị 10.050.000.000 đồng. Công ty Đồng Lực cho rằng việc mua bán với VietinBank là hợp pháp, đề nghị Tòa án công nhận các hợp đồng nêu trên để Công ty ổn định sản xuất.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 20/2009/KDTM-ST ngày 30-9-2009, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định (tóm tắt):
1- Không chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Khu công nghiệp Bình Dương về việc yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Quang thanh toán số tiền nợ 5.273.000.000 đồng trên cơ sở đã khấu trừ giá trị tài sản của Công ty Ngọc Quang bị xử lý.
2- Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Ngọc Quang:
Tuyên bố các Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất thuê ngày 08-12-2007, có số công chứng 638 của Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình Dương ngày 10-12-2007 và Hợp đồng mua bán tài sản ngày 08-12-2007, có số công chứng số 639 của Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình Dương ngày 10-12-2007 được ký kết giữa Ngân hàng Công thương và Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực là vô hiệu.
Buộc Ngân hàng Công thương và Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực phải hoàn trả cho Công ty TNHH Ngọc Quang các tài sản: 03 nhà xưởng, 01 nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ gắn liền quyền sử dụng 6.012 m2 đất thuê tại Khu công nghiệp Đồng An, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương; 03 dây chuyền sản xuất bột mì do Trung Quốc sản xuất (chi tiết tài sản được thể hiện cụ thể tại các hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng thế chấp).
Việc tính toán các thiệt hại do việc hoàn trả các tài sản giao dịch trong các hợp đồng bị tuyên vô hiệu do các bên tự giải quyết hoặc có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền trong trường hợp có tranh chấp.
Các bên phải thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các giao dịch bảo đảm chưa đăng ký.
Ngân hàng Công thương Việt Nam phải thực hiện lại thủ tục thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
3- Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Chung Ngọc Nghĩa, ông Phạm Hoàng Khánh, ông Phạm Hoàng Thọ, bà Phạm Thị Hoàng Oanh, bà Phạm Thị Hoàng Yến và ông Phạm Hoàng Tuấn về thời hiệu khởi kiện đối với Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản để vay vốn ngân hàng số 04.00189/HĐBL ngày 25-11-2004. Các bên phải thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với hợp đồng bảo lãnh này.
Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 89/2010/KDTM-PT ngày 10-6-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định (tóm tắt):
Chấp nhận việc rút kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần có liên quan đến yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Hoàng Tuấn (đồng thời là người đại diện hợp pháp của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác).
Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 20/2009/KDTM-ST ngày 30-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, như sau:
1- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Khu công nghiệp Bình Dương về việc yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Quang thanh toán số tiền nợ 5.273.000.000 đồng trên cơ sở đã khấu trừ giá trị tài sản của Công ty Ngọc Quang bị xử lý.
2- Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Ngọc Quang:
Tuyên bố các Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất thuê ngày 08-12-2007, có số công chứng 638 của Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình Dương ngày 10-12-2007 và Hợp đồng mua bán tài sản ngày 08-12-2007, có số công chứng số 639 của Phòng công chứng số 02 tỉnh Bình Dương ngày 10-12-2007 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực là vô hiệu.
Buộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Công ty cổ phần cơ khí Đồng Lực phải hoàn trả cho Công ty TNHH Ngọc Quang các tài sản: 03 nhà xưởng, 01 nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ gắn liền quyền sử dụng 6.012 m2 đất thuê tại Khu công nghiệp Đồng An, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương; 03 dây chuyền sản xuất bột mì cho Trung Quốc sản xuất (chi tiết tài sản được thể hiện cụ thể tại các hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng thế chấp).
Việc tính toán các thiệt hại do việc hoàn trả các tài sản giao dịch trong các hợp đồng bị tuyên vô hiệu do các bên tự giải quyết hoặc có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền trong trường hợp có tranh chấp.
Các bên phải thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các giao dịch bảo đảm chưa đăng ký.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam phải thực hiện lại thủ tục thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
Các phần khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Chi nhánh khu công nghiệp Bình Dương có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm nêu trên. .
Tại Quyết định kháng nghị số 29/2013/KDTM-KN ngày 03-6-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 89/2010/KDTM-PT ngày 10-6-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 20/2009/KDTM-ST ngày 30-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
1- VietinBank khởi kiện yêu cầu Công ty Ngọc Quang thanh toán nợ của 05 hợp đồng tín dụng, gồm: Hợp đồng tín dụng số 04.00984 ngày 27-10-2004; Hợp đồng tín dụng số 05.00342 ngày 17-5-2005; Hợp đồng tín dụng số 05.00473 ngày 29-6-2005; Hợp đồng tín dụng số 05.00481 ngày 05-7-2005; Hợp đồng tín dụng số 05.00645 ngày 04-10-2005. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Khu công nghiệp Bình Dương về việc yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Quang thanh toán số tiền nợ 5.273.000.000 đồng trên cơ sở đã khấu trừ giá trị tài sản của Công ty Ngọc Quang bị xử lý” và buộc VietinBank phải chịu án phí là không đúng, gây thiệt hại cho VietinBank. Quyết định nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm làm mất quyền khởi kiện lại của VietinBank vì sự việc đã được giải quyết bằng bản án đã có hiệu lực của Tòa án.
2- Về tính hợp pháp của các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản ký giữa VietinBank, Công ty Ngọc Quang và những người bảo lãnh và việc VietinBank xử lý tài sản bảo đảm của các hợp đồng này để thu hồi nợ, thấy:
- Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 và các Hợp đồng cầm cố tài sản để vay vốn Ngân hàng số 01.035/HĐCCTS ngày 14-3-2001; số 02.00057/HĐCCTS ngày 25-3-2002 và số 02.00098/HĐCCTS ngày 03-5-2002 ký giữa VietinBank, Công ty Ngọc Quang có hiệu lực là đúng.
- Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003:
Tài sản thế chấp theo hợp đồng này gồm: nhà xưởng, kho, văn phòng, nhà bảo vệ, nhà vệ sinh, nhà nghỉ, nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ (tổng giá trị 3.514.000.000 đồng) thuộc sở hữu của Công ty Ngọc Quang, nằm trên diện tích 6.012 m2 đất tại khu công nghiệp Đồng An (đã được thế chấp cho VietinBank theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC nêu trên) được dùng để bảo đảm cho các khoản vay tại các hợp đồng tín dụng Công ty Ngọc Quang ký với VietinBank với tổng dư nợ tối đa được bảo đảm là 2.284.100.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: “Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 đã vi phạm về hình thức, không được đăng ký giao dịch bảo đảm nên không phát sinh hiệu lực. Ngân hàng phải tiến hành lại thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19-11-1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (đang có hiệu lực tại thời điểm các bên ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003) nay đã được thay thế bằng Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính Phủ thì: “Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm phải đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, thì giao dịch này có hiệu lực từ thời điểm đăng ký.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐCP ngày 10-3-2000 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì những trường hợp sau đây phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm “a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu”...; quy định tại điểm a khoản 1 Điều 130 Luật đất đai thì khi thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản là bất động sản gắn liền với đất phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 08/2000/NĐCP ngày 10-3-2000 của Chính phủ nêu trên thì: “1- Các giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký cho đến khi hết hiệu lực đăng ký theo quy định tại Điều 13 Nghị định này (Việc đăng ký giao dịch bảo đảm có giá trị trong năm năm, kể từ ngày đăng ký...).
2- Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký. 3- Việc đăng ký giao dịch bảo đảm...không có giá trị xác nhận tính xác thực của giao dịch bảo đảm”.
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 37 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP nêu trên thì “Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thì tiền bán được thanh toán theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm”.
Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2. mục 2 phần II Thông tư số 06/2002/TT-BTP ngày 28-2-2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19-11-1999 của Chính phủ thì “Việc công chứng hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản không thay thế cho việc đăng ký các hợp đồng này. Vì vậy, các bên muốn hưởng thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm thì, phải đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký các giao dịch bảo đảm”.
Đối chiếu trường hợp của vụ án này với các quy định nêu trên của pháp luật thì thấy: Tài sản bảo đảm thuộc quyền sử dụng và sở hữu hợp pháp của Công ty Ngọc Quang; hợp đồng được ký kết trên cơ sở tự nguyện; người ký hợp đồng đúng thẩm quyền; hợp đồng đã được Công chứng viên Phòng công chứng số 1 tỉnh Bình Dương chứng nhận. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 6.012 m2 đất tại khu công nghiệp Đồng An đã được thế chấp hợp pháp cho VietinBank theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 như đã nêu trên. Cũng tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 nêu trên, các bên đã xác định rõ: “Tài sản gắn liền với đất đem thế chấp: Toàn bộ tài sản trên lô đất thế chấp (Có hợp đồng thế chấp, cầm cố riêng)”. Sau đó, các bên đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 (tài sản thế chấp gồm: nhà xưởng, kho, văn phòng, nhà bảo vệ, nhà vệ sinh, nhà nghỉ, nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ). Như vậy, tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 đồng thời cũng là tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002, như vậy hợp đồng thế chấp này là hợp pháp có giá trị pháp lý. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hợp đồng không phát sinh hiệu lực là không đúng. Do đó, nếu Công ty Ngọc Quang không thanh toán được nợ, thì VietinBank có quyền xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận của các bên trong các hợp đồng thế chấp (Điều 5 của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003) và quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 32 Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 29-11-1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (đang có hiệu lực tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng thế chấp, cầm cố thì “Quyền sử dụng đất thế chấp được xử lý theo phương thức do các bên thỏa thuận; trong trường hợp không có thỏa thuận thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá để thanh toán nghĩa vụ”.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 về giao dịch bảo đảm (thay thế Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19-11-1999) và đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ thì “Người xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thoả thuận khác.
Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm”.
Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 68 Nghị định 163/2006/NĐ-CP nêu trên thì:
“1. Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được bán đấu giá.
2. Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với đất đó được tiếp tục sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong hợp đồng về quyền sử dụng đất giữa bên thế chấp và người sử dụng đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Theo quy định tại Điều 118 Luật nhà ở năm 2005 thì: “Việc xử lý nhà ở thế chấp để thực hiện nghĩa vụ được thực hiện thông qua hình thức bán đấu giá theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác...”.
Trong các hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản, Công ty Ngọc Quang (bên A) và VietinBank (bên B) đã thỏa thuận: “Trường hợp Bên A vi phạm hợp đồng tín dụng thì phải chấp nhận phương thức xử lý tài sản cầm cố (hoặc tài sản thế chấp) của Bên B” và “Trường hợp Bên A không trả được nợ cho Bên B như đã thỏa thuận Bên B được toàn quyền xử lý tài sản cầm cố (hoặc thế chấp) để thu hồi nợ theo các phuơng thức do Bên B quyết định như sau: “Trực tiếp bán tài sản cầm cố (hoặc thế chấp) cho người mua”... Do đó, khi Công ty Ngọc Quang không thanh toán được nợ theo hợp đồng, VietinBank đã tự đứng ra bán tài sản để thu hồi nợ theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật.
Ngoài ra, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện trước khi bán tài sản bảo đảm của Công ty Ngọc Quang, VietinBank đã có văn bản thông báo cho Công ty Ngọc Quang; đã có văn bản gửi Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương, Công ty cổ phần thương mại sản xuất xây dựng Hưng Thịnh (sau đây gọi tắt là Công ty Hưng Thịnh), Công an huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương đề nghị hỗ trợ vì Công ty Ngọc Quang không hợp tác, VietinBank không tìm gặp được Công ty Ngọc Quang; tháng 8-2006 và tháng 4-2007, VietinBank đã đăng thông báo bán đấu giá tài sản bảo đảm của Công ty Ngọc Quang trên báo Sài Gòn giải phóng (BL.390, 391 392, 393); tháng 11-2007, Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương cũng phải đăng thông báo yêu cầu ông Phạm Hoàng Tuấn - Giám đốc Công ty Ngọc Quang, đến Cơ quan thi hành án tỉnh Bình Dương để giải quyết việc bảo đảm tài sản kê biên trên phương tiện thông tin đại chúng (BL.396). Theo xác nhận của Công ty Hưng Thịnh (ngày 12-12-2006) thì Công ty Ngọc Quang đã ngưng hoạt động sản xuất từ tháng 12-2005 đến nay (BL.380). Như vậy, mặc dù sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương thu hồi hủy bỏ Biên bản kê khai tài sản của Công ty Ngọc Quang, VietinBank mới thực hiện việc bán tài sản của Công ty Ngọc Quang để thu hồi nợ nhưng vẫn đảm bảo đúng thỏa thuận của các bên trong các hợp đồng cầm cố, thế chấp.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhận định việc VietinBank xử lý tài sản đảm bảo không tuân theo trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh việc mua bán đó có sự khuất tất, bán không đúng với giá trị thực của tài sản, có khôi phục được tình trạng ban đầu của tài sản hay không mà vẫn tuyên hủy hợp đồng mua tài sản của Công ty Đồng Lực; buộc VietinBank và Công ty Đồng Lực hoàn trả lại cho Công ty Ngọc Quang những tài sản đã mua bán tại các hợp đồng mua bán tài sản là không đúng và không có tính khả thi; bởi vì: theo trình bày của Công ty Đồng Lực thì số tài sản là máy móc, dây chuyền sản xuất đã quá lạc hậu và bị hỏng nên Công ty phải tháo dỡ bán sắt vụn... Mặt khác, khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu và buộc các bên trả lại tài sản cho nhau, nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là không đúng.
Ngoài ra, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh khu công nghiệp Bình Dương là không chính xác; nguyên đơn trong vụ án này phải là Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, các khoản 1 và 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 89/2010/KDTM-PT ngày 10-6-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 20/2009/KDTM-ST ngày 30-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Tài sản bảo đảm thuộc quyền sử dụng và sở hữu hợp pháp của Công ty Ngọc Quang; hợp đồng được ký kết trên cơ sở tự nguyện; người ký hợp đồng đúng thẩm quyền; hợp đồng đã được Công chứng viên Phòng công chứng số 1 tỉnh Bình Dương chứng nhận. Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 6.012 m2 đất tại khu công nghiệp Đồng An đã được thế chấp hợp pháp cho VietinBank theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 như đã nêu trên. Cũng tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 nêu trên, các bên đã xác định rõ: “Tài sản gắn liền với đất đem thế chấp: Toàn bộ tài sản trên lô đất thế chấp (Có hợp đồng thế chấp, cầm cố riêng)”. Sau đó, các bên đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 (tài sản thế chấp gồm: nhà xưởng, kho, văn phòng, nhà bảo vệ, nhà vệ sinh, nhà nghỉ, nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ). Như vậy, tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 đồng thời cũng là tài sản bảo đảm theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002, như vậy hợp đồng thế chấp này là hợp pháp có giá trị pháp lý. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hợp đồng không phát sinh hiệu lực là không đúng. Do đó, nếu Công ty Ngọc Quang không thanh toán được nợ, thì VietinBank có quyền xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận của các bên trong các hợp đồng thế chấp (Điều 5 của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC ngày 21-02-2002 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003) và quy định của pháp luật”.