Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế'’ giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn ông T, ông Th của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố X, tỉnh Y tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.
(1) Tóm tắt nội dung vụ án dân sự
Yêu cầu nguyên đơn:
- Bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án chia phần di sản thừa kế của ông N (chồng của bà, chết năm 1995) để lại trong khối tài sản chung của vợ chồng là 1/2 ngôi nhà và tài sản khác gắn liền diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất số 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b cho hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm bà và 06 người con: Bà NT, ông NT, bà M, bà MT, ông Th, ông T (riêng bà Tr đã được chia trước 40m2 đất và xây dựng nhà ở ổn định nên từ chối không hưởng phần di sản còn lại).
- Bà Đ đề nghị được nhận nhà đất bằng hiện vật, tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà đất để ở và trả lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác.
Bị đơn:
- Bị đơn ông Th thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xin nhận kỷ phần bằng giá trị.
- Bị đơn ông T, hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp, không đồng ý chia thừa kế, ông muốn giữ nguyên nhà đất như hiện nay để ở và làm nơi thờ tự.
(2) Quá trình giải quyết vụ án
Quyết định của TAND thành phố X, tỉnh Y về bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ và sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NT, ông NT, bà M, bà MT giao lại kỷ phần của mỗi người được hưởng cho mẹ (bà Đ) toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt.
- Bà Đ được quyền tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà cấp 4 cùng các công trình kiến trúc khác và các cây trồng trên đất gắn liền với diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất sổ 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b...
- Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đổi với các kỷ phần cho ông Th được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng; ông T được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng.
- Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đối với giá trị tài sản phát sinh của vợ chồng ông T, bà N là 22.655.593 đồng.
- Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai
Ngày 11/12/2018, TAND thành phố X ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018.
Ngày 15/02/2022, VKSND thành phổ X, tỉnh Y có Báo cáo số 04/BC-VKS- DS đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X.
Ngày 01/6/2022, bà Đ có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Ngày 30/8/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 63/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2018 của TAND thành phố X, tỉnh Y.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 58/2022/DS-GĐT ngày 25/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ- SCBSBA ngày 11/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
(3) Những vấn đề rút kinh nghiệm
Tại phần quyết định của các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố X gửi cho bà Đ và VKSND thành phố X lại ghi thêm nội dung: “vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N đế tạo lập nơi ở khác. ”
Đồng thời, ngày 11/12/2018, TAND thành phố X lại ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm có nội dung: “Tại dòng thứ 9 từ trên xuống, trang số 6 của bản án đã ghi: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N để tạo lập nơi ở khác. ” .
Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa, bổ sung vào phần quyết định của bản án sơ thẩm nội dung hoàn toàn mới so với Biên bản nghị án và bản án được tuyên tại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực tế, tồn tại nhiều Bản án sơ thẩm cùng số 26/2018/DSST cùng ngày 27/4/2018 và Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của TAND thành phố X có nội dung tại phần quyết định khác nhau dẫn đến không thể thi hành án.
Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia di sản thừa kế” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.