Chào bạn,
1/ Nếu đúng là đất của chị gái bạn thì mọi chuyện do chị gái bạn quyết định. Trường hợp này các hành vi của chính quyền và ông B đều không đủ căn cứ pháp lý.
2/ Nếu đất đó không phải của chị bạn thì việc ký giấy ủy quyền là một bằng chứng rất bất lợi cho bạn. Trường hợp này nhiều khả năng bạn chỉ được giữ lại căn nhà như đề cập trong giấy ủy quyền.
3/ Trường hợp đất là tài sản chung của chị bạn và ông B thì việc phân định đúng sai sẽ khá rắc rối vì tài sản chung được định đoạt khi cả 2 người đó cùng đồng ý và bạn phải thu thập được đầy đủ chứng cứ để chứng minh rằng đất này đã được cho bạn. Khi xác định được ai đúng thì mới có căn cứ để đánh giá các hành vi của chính quyền liên quan đến các tài sản bạn nêu.
Bạn có thể tham khảo thẩm quyền giải quyết tranh chấp như quy định của Luật Đất đai như dưới đây:
Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Trân trọng!
LS Cao Sỹ Nghị
101 Đào Duy Anh, Phường 9, quận Phú Nhuận TP. HCM
Email: caosynghi@gmail.com