Như bạn trình bày, vì lý do bà Năm có quốc tịch và đang sinh sống ở nước ngoài, nên vào năm năm 2000, bà Năm có gửi tiền cho bà Tư mua một thửa đất. Vì pháp luật không cho phép, bà Năm có nhờ bà Tư đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và đã xây dựng nhà. Từ năm 2000 đến nay, mọi chi phí mua, làm sổ sách, tôn tạo, xây dựng, sửa chữa đất và nhà đều do bà Năm gửi tiền về để bà Tư làm giúp, nhưng không có bằng chứng chứng minh.
Như vậy, bà Năm đã bất cẩn và không tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ, theo quy định tại Khoản 21, Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất theo quy định của pháp luật. Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của các luật có liên quan được thực hiện theo quy định của Luật này có giá trị pháp lý tương đương như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại Luật này.”
Căn cứ quy định trên, thì việc đứng tên trên GCN QSDĐ là sự ghi nhận của Nhà nước về quyền của người sử dụng đất, nên việc nhờ người khác đứng tên trên sổ đất, tức là đã trao toàn quyền đối với thửa đất đó cho người đứng tên hộ (trường hợp này là bà Tư). Theo đó, cơ quan có thẩm quyền cấp GCN QSDĐ sẽ ghi nhận tên người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở hoặc tài sản khác gắn liền với đất tại trang bìa của GCN sẽ là tên bà Tư và đương nhiên người được pháp luật công nhận QSDĐ đó là bà Tư (người đứng tên dùm cho bà Năm).
Như vậy, trường hợp nhờ người khác đứng tên trên GCNQSDĐ tức là đang trao toàn quyền đối với bất động sản cho người đứng tên hộ,. Về mặt pháp lý, người được nhờ đứng tên trên Giấy chứng nhận được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng/sở hữu đối với nhà, đất, trong khi thực tế họ không phải là chủ sở hữu thực sự của nhà đất.
Trước tiên, bà Năm cần tiến hành thỏa thuận với người được nhờ đứng tên hộ về việc chuyển quyền sử dụng đất (sang tên Gấy chứng nhận quyền sử dụng đất) từ bà Tư sang bà Năm. Nếu người đó đồng ý, hai bên có thể chuyển quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng tặng cho có công chứng, chứng thực và thực hiện sang tên tại Phòng tài nguyên môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất.
Trong trường hợp bà Năm không thể thỏa thuận với người đó để chuyển quyền sử dụng đất, bà Năm có thể khởi kiện lên tòa án để được giải quyết.
Tòa án nhân dân nơi có đất sẽ tiếp nhận hồ sơ, giải quyết vụ việc. Khi đó, bà Năm cần phải chứng minh được mình là chủ sở hữu nhà đất thật sự. Bà Năm cần cung cấp các giấy tờ, giao dịch chứng minh về thỏa thuận nhờ người đứng tên sổ đỏ và phải có người làm chứng. Nếu hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản thì phải có các chứng cứ khác để chứng minh.
Tòa sẽ căn cứ vào kết quả xác minh nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, hiện trạng sử dụng đất, chứng cứ, tài liệu các bên đưa ra để quyết định ai là chủ nhân thực sự của bất động sản.
Thông thường, việc khởi kiện đòi lại nhà đất nhờ người khác đứng tên hộ sẽ mất khá nhiều thời gian, công sức và tiền bạc.
Luật sư: Vũ Văn Toàn - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; Điện thoại: 0978 99 4377
Website: https://myskincare.vn ; https://tplgiabinh.blogspot.com ; Email: luatsuvutoan@gmail.com.