Việc công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về thông tin mức lương tối thiểu và phương pháp xác định mức lương tối thiểu theo nhu cầu tối thiểu của người lao động là điều cần thiết để doanh nghiệp có thể (i) Xác định được thông tin, kế hoạch và định hướng cải cách tiền lương của Chính phủ; (ii) Tự điều chỉnh chiến lược giá của sản phẩm trên cơ sở định hướng cải cách tiền lương đó; (iii) Nắm bắt mức lương tối thiểu cho nhu cầu tối thiểu của người lao động theo từng thời kỳ; từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh thang bảng lương, đảm bảo cuộc sống của người lao động nhằm giữ chân họ gắn bó với doanh nghiệp.
Trong bản Đề xuất phương án tiền lương tối thiểu vùng năm 2014 ngày 12/07/2013, phương án điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng nêu ra một số căn cứ để điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng như mức lương tối thiểu theo nhu cầu tối thiểu của người lao động, tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, không đạt chỉ tiêu đề ra… Tuy nhiên, Hội đồng tiền lương quốc gia chưa đề cập đến một số yếu tố pháp lý mới có hoặc sắp có hiệu lực ảnh hưởng đến quỹ lương chi trả của doanh nghiệp, cụ thể như sau:
1. Quỹ tiền lương làm thêm giờ:
Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 1994 (đã hết hiệu lực), trường hợp người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì tiền lương làm thêm giờ được tính trả như sau (đối với lao động trả lương theo thời gian)[5]:
Tiền lương làm thêm giờ vào ban đêm
|
=
|
Tiền lương
giờ thực trả
|
x
|
130%
|
x
|
150% hoặc
200% hoặc 300%
|
x
|
Số giờ làm thêm vào ban đêm
|
Nếu người lao động làm thêm 1 giờ vào ban đêm ngày thường, họ sẽ nhận được 195% tiền lương giờ theo công việc làm vào ban ngày.
Theo quy định mới của Bộ luật Lao động năm 2012, ngoài mức tính 150% (cho ngày thường) và 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường, doanh nghiệp buộc phải trả thêm một khoản tiền bằng 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày nếu người lao động làm thêm giờ vào ban đêm[6].
Tức là, ngoài mức 195% như trên, doanh nghiệp phải trả thêm 20% nữa.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải trả 400% cho người lao động hưởng lương ngày nếu đi làm thêm vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương[7]. Hiện chưa có hướng dẫn về việc những người lao động hưởng lương giờ, lương tuần, lương tháng hoặc lương theo sản phẩm, theo khoán có được hưởng mức 400% như người lao động hưởng lương ngày hay không. Nhưng chắc chắn một điều, doanh nghiệp phải trả cao hơn so với mức 300% theo quy định cũ[8].
2. Mức đóng Bảo hiểm xã hội:
Theo lộ trình tăng mức đóng bảo hiểm xã hội được quy định tại Khoản 1, Điều 91, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và Khoản 1, Điều 5, Quy định quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Quyết định số 1111/QĐ-BHXH của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ngày 25/10/2011, kể từ 01/01/2014 trở đi, doanh nghiệp phải đóng 18% mức tiền lương, tiền công tháng, tăng thêm 1% so với năm 2013.
Khi mức tiền lương tối thiểu vùng tăng, hai khoản vừa nêu ở trên cũng sẽ tăng theo. Trong cơ cấu giá sản phẩm, chi phí nhân công chiếm khoảng 15% - 30% giá thành. Nếu như tăng lương theo phương án 1, giá thành sản phẩm tăng lên khoảng 5% - 8%. Còn nếu theo phương án 2, giá thành sản phẩm tăng lên khoảng 4% - 6%. Đây là những mức tăng không dễ dàng gì cho doanh nghiệp trong thời điểm kinh tế khó khăn hiện nay. Do đó, chúng tôi đề xuất mức tiền lương tối thiểu vùng tăng khoảng 10% -12% như sau:
Vùng
|
Phương án 3
|
Mức lương tối thiểu năm 2014
|
Mức tăng năm 2014 so với năm 2013
|
Vùng 1
|
2.600
|
250
|
Vùng 2
|
2.350
|
250
|
Vùng 3
|
2.000
|
200
|
Vùng 4
|
1.850
|
200
|
Mức lương tối thiểu vùng này đáp ứng được khoảng 66% - 71% so với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
[1] Điều 56, Bộ luật Lao động năm 1994
[2] Khoản 2, Điều 91, Bộ luật Lao động năm 2012
[4] Hội đồng tiền lương quốc gia đề xuất giữ nguyên bốn vùng và danh mục địa bàn ở bốn vùng theo quy định tại Nghị định số 103/2012/NĐ-CP ngày 04/12/2012.
[6] Khoản 3, Điều 97, Bộ luật Lao động năm 2012: “Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày.”
[7] Điểm c, Khoản 1, Điều 97, Bộ luật Lao động năm 2012
[8] Điểm a, Khoản 2, Mục V, Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH: “Mức 300%, áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương (trong mức 300% này đã bao gồm tiền lương trả cho thời gian nghỉ được hưởng nguyên lương theo điều 73, 74, 75 và 78 của Bộ Luật Lao động)”.
Nguồn: http://vcalaw.com/