cho em hỏi về cách giải quyết tình huống của tòa án nhân dân trong vụ án này ạ. Có thể giải thích giúp em tại sao lại có cách chia giá trị xây dựng tương ứng của tòa án được không ạ. Em không hiểu rõ cách chia đó, và nó dựa trên cơ sở nào ạ.
Vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1954 và vợ là bà Hoàng Thị Kim Anh, sinh năm 1961;
Bà Anh ủy quyền cho ông Minh tham gia tố tụng.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Hạnh, sinh năm 1966 và vợ là bà Bùi Thị Thủy, sinh năm 1954;
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thúy Quỳnh, sinh năm 1987; 2. Anh Nguyễn Hoàng Tùng, sinh năm 1992;
Cùng ủy quyền cho ông Minh.
3. Chị Nguyễn Thị Lan Hương, sinh năm 1978;
4. Anh Nguyễn Văn Thắng, sinh năm 1981;
Các đương sự cùng trú tại số 5 ngõ 76 (cũ là số 7 ngõ 10) đường Vân Hồ 3, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/6/2008 (BL 15) và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Minh, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của đồng nguyên đơn là bà Hoàng Thị Kim Anh trình bày:
Diện tích nhà đất tại số 5 ngõ 76 (địa chỉ cũ là số 7 ngõ 10) đường Vân Hồ 3 phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội có nguồn gốc là của cha mẹ ông đứng tên chủ hợp đồng thuê của Nhà nước từ năm 1954. Năm 1960 mẹ ông chết, năm 1981 cha ông chết. Sau này diện tích nhà đất trên chỉ có hộ gia đình ông và hộ gia đình ông Nguyễn Văn Hạnh (là em của ông) sử dụng, các anh em khác ở nơi khác nên hợp đồng thuê nhà chỉ còn đứng tên vợ chồng ông Hạnh cùng hai con của ông Hạnh và vợ chồng ông cùng hai con của ông (ông Hạnh là người đứng tên chủ hợp đồng thuê). Diện tích nhà chính mỗi bên sử dụng ½ là khoảng hơn 10m2, còn diện tích sân bếp vệ sinh dùng chung. Quá trình sử dụng gia đình ông Hạnh đã cải tạo ra đất lưu không phía trước được diện tích khoảng 15,15m2, còn ông cũng cải tạo được khoảng 22m2 đất lưu không ở phía trong.
Năm 2000 – 2001, anh em ông đã cùng nhau bỏ tiền ra mua nhà theo Nghị định 61/CP đối với diện tích nhà đất trong hợp đồng thuê là 46,2m2 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở ngày 29/8/2001, trong đó có 04 người đứng tên đồng sở hữu là vợ chồng ông và vợ chồng ông Hạnh.
Thực tế, từ trước đến nay gia đình ông sử dụng diện tích nhà phía trong, gia đình ông Hạnh sử dụng diện tích nhà bên ngoài, sân và công trình phụ 2 gia đình sử dụng chung. Toàn bộ diện tích trong và ngoài sổ đỏ của hai gia đình đã được xây tường bao riêng biệt, không có sự tranh chấp với các hộ liền kề.
Quá trình sử dụng diện tích nhà đất trên giữa gia đình ông và hộ gia đình ông Hạnh đã có mâu thuẫn căng thẳng từ nhiều năm nay. Do vậy, ông đề nghị Tòa án chia diện tích trong sổ đỏ và diện tích ngoài sổ đỏ cho 2 hộ trên cơ sở hợp tình, hợp lý để thuận tiện cho việc sử dụng: diện tích trong sổ đỏ chia mỗi bên ½, diện tích ngoài sổ đỏ chia công bằng. Diện tích ngoài sổ đỏ phía trước do gia đình ông Hạnh cơi nới sử dụng, diện tích ngoài sổ đỏ phía trong (sau bếp và WC) do ông cơi nới và sử dụng từ năm 1971 đến nay. Việc đóng thuế đất thì hai gia đình cùng góp tiền đóng. Diện tích ngoài sổ đỏ đã được kê khai từ năm 2005 nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện và tại biên bản hòa giải ngày 29/12/2008, ngày 06/3/2009 ông Minh và bà Kim Anh thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện: đề nghị Tòa án phân chia diện tích nhà đất trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đối với diện tích 46,2m2, còn diện tích ngoài giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở ông, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tại bản tự khai ngày 18/6/2008 và quá trình tố tụng, bị đơn ông Nguyễn Văn Hạnh và bà Bùi Thị Thủy trình bày:
Về nguồn gốc nhà đất tại số 5 ngõ 76 Vân Hồ 3 đúng như nguyên đơn trình bày. Sau khi cha ông Hạnh chết năm 1981 thì hợp đồng nhà đứng tên bà Bùi Thị Thủy, sau này có thêm các thành viên của gia đình ông Minh. Đến thời điểm mua nhà theo Nghị định 61/CP thì hợp đồng gồm những người có tên sau: Nguyễn Văn Hạnh, Bùi Thị Thủy, Nguyễn Thị Lan Hương, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Minh, Hoàng Thị Kim Anh, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Hoàng Tùng.
Quá trình sử dụng gia đình ông bà có cơi nới ra phía trước nhà được diện tích khoảng 15m2, phía sau bếp, WC cơi nới được diện tích khoảng 23m2.
Năm 2001, gia đình ông bà và gia đình ông Minh đã mua nhà theo Nghị định 61/CP và đã được Nhà nước bán và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở ngày 29/8/2001 đối với diện tích 46,2m2 trong hợp đồng, diện tích ngoài sổ đỏ phía trước và phía sau từ trước đến nay đều do gia đình ông bà sử dụng và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại biên bản hòa giải ngày 29/12/2008 và ngày 6/3/2009, ông Hạnh bà Thủy nêu quan điểm: đồng ý chia tách diện tích nhà đất trong sổ đỏ là 46,2m2, còn diện tích ngoài sổ đỏ gia đình ông bà đang tự quản thì không chia.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm ông Hạnh, bà Thủy cho rằng nhà đất trên thuộc sở hữu riêng của ông bà vì bà Thủy là chủ hợp đồng thuê nên ông bà không chấp nhận yêu cầu chia của vợ chồng ông Minh, bà Kim Anh.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
3.1. Chị Nguyễn Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Hoàng Tùng (là con của ông Minh bà Kim Anh) trình bày:
Nhà và đất tranh chấp là tài sản thuộc sở hữu chung của cha mẹ anh chị và các bác Hạnh, Thủy cùng đứng tên trong sổ đỏ. Đề nghị Tòa án giải quyêt theo pháp luật.
3.2. Chị Nguyễn Thị Lan Hương và anh Nguyễn Văn Thắng (con của ông Hạnh, bà Thủy) trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của ông Hạnh, bà Thủy.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
1. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DS-ST ngày 25/5/2009 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội quyết định:
Chấp nhận yêu cầu chia tài sản thuộc sở hữu chung của ông Minh, bà Kim Anh đối với diện tích nhà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 5 ngõ 76 Vân Hồ 3 – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Chia quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất cho hai hộ gia đình ông Hạnh, bà Thúy; hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh, cụ thể như sau:
- Dành một lối đi để hai hộ sử dụng chung có kích thước 0,8m x 12,82m (chiều rộng tính từ tim tường chung nhà chính và WC chung với nhà ông Dũng, bức tường sân thì tính từ mép trong trở vào. Chiều dài chạy dọc từ ngoài vào đến hết tường hậu nhà WC) nằm trên diện tích được cấp giấy chứng nhận, nằm phía bên tay trái tiếp giáp với tường chung nhà ông Dũng.
- Chia đôi diện tích nhà đất còn lại, hộ gia đình ông Hạnh, bà Thủy được sở hữu, sử dụng ½ diện tích nhà đất có kích thước 2,88m x 6,45m = 17,97m2 ở phía ngoài, bên trái đứng từ diện tích đất cơi nới phía ngoài của số nhà nhìn vào. Chia cho hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh được sở hữu, sử dụng ½ diện tích nhà đất còn lại gồm: diện tích nhà chính 2,88m x 0,21m = 0,6m2, diện tích sân 2,6m x 3,92m = 10,2m2, diện tích bếp 2,58m x 2,78m = 7,17m2. Tổng diện tích nhà đất hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh được chia là 17,97m2 nằm ở phía trong, bên phải đứng từ diện tích cơi nới phía ngoài của số nhà nhìn vào.
- Hộ ông Hạnh, bà Thủy được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia giá trị xây dựng tương ứng là 7.272.850đ.
- Hộ ông Minh, bà Kim Anh được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia giá trị xây dựng tương ứng là 1.451.925đ.
- Hộ ông Hạnh, bà Thủy phải thanh toán cho hộ ông Minh, bà Kim Anh số tiền giá trị xây dựng chênh lệch là 2.791.462đ.
- Hai bên phải giữ nguyên hiện trạng, cống thoát nước của các bất động sản liền kề chay ngang qua diện tích đất của hộ gia đình, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng chảy làm ảnh hưởng đến sinh hoạt chung và có quyền dỡ bỏ phần nhà phía trên lối đi, diện tích nhà WC để tạo lối đi chung, phải tự tạo công trình phụ để sử dụng riêng trên phần diện tích nhà đất được chia.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 03/6/2009, ông Hạnh, bà Thủy, chị Hương và anh Thắng có đơn kháng cáo.