Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Dương Văn Mai - LuatSuDuongVanMai

  • Xem thêm     

    24/10/2011, 09:01:14 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn caophong!

    Theo các thông tin bạn cung cấp, căn cứ Điều 645 Bộ luật dân sự thì thời hiệu khởi kiện thừa kế đến nay đã hết.

    Điều 645 quy định như sau:

    Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

    Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
     

    Vì thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đã hết nên không thể chia khối di sản trên theo hình thức chia thừa kế được.
    Do đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế nên nếu muốn chia di sản trên các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ bạn phải đạt được những sự thống nhất sau:

    - Thống nhất về khối tài sản của bố mẹ bạn để lại;
    - Thống nhất về những người được thừa kế;
    - Thống nhất là di sản chưa được chia (đây là nội dung quan trọng nhất);

    Nếu đạt được sự thống nhất với tất cả các nội dung trên thì có thể chia di sản của bố mẹ bạn để lại dưới hình thức chia di sản, tài sản chung, khi tài sản được đem chia thì sẽ chia theo pháp luật và có xem xét đến đóng góp của từng người vào khối tài sản đó để quyết định./.

    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    22/10/2011, 11:29:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Về nội dung nộp thuế và lệ phí liên quan đến việc sử dụng đất như thế nào thì phải phụ thuộc vào các chính sách về thuế của nhà nước vào thời điểm đó hơn nữa cũng cần phải căn cứ vào việc Nhà nước sẽ tiếp tục giao đất cho người đang sử dụng hay người sử dụng mới dưới hình thức nào cho thuê hay giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc giao đất nhưng không thu tiền sử dụng đất....? Vì vậy vấn đề về thuế sử dụng đất như thế nào vào thời điểm hết hạn sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bạn tạm thời tôi chưa trả lời được vì còn phụ thuộc vào các chính sách của nhà nước trong tương lai.
    Về nội dung bạn hỏi đất hết hạn sử dụng cà nhà nước thu hồi đất thì có được đền bồi thường hay không? Tôi trả lời như sau:
    Về nguyên tắc nhà nước vẫn sẽ bồi thường với điều kiện những tài sản trên đất đó được tạo lập trước thời điểm công bố kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất mới. Những tài sản được tạo lập sau ngày có công bố kế hoạch, quy hoạch về nguyên tắc sẽ không được bồi thường. (Bạn có thể tìm hiểu thêm tại nghị định 197/2004/ND-CP của Chính phủ).
    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    22/10/2011, 11:21:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Tôi đồng ý với những nội dung bổ sung của bạn thuonggia78, hy vọng rằng bạn đọc này đã hiểu và biết nên làm gì.
    Chúc các bạn thành công!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 01:55:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Không có gì, chúc Hạnh thành công!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 11:59:36 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào Hanh1084!
    Hiện tại đó đang là những chứng cứ để có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Hạnh.
    Theo tôi nếu trong suốt thời gian vừa qua bạn vẫn sử dụng dịch vụ của họ và số tiền không lớn thì bạn có thể thanh toán cho họ để không phải giải quyết vụ việc tại tòa hoặc để họ khởi kiện bạn ra tòa. Về tài sản tranh chấp thì không lớn nhưng nếu giải quyết vụ việc thông qua tòa án thì sẽ rất mất thời gian ảnh hưởng đến công việc của bạn nữa. Hoặc giả trường hợp bạn không tham gia quá trình giải quyết tại phiên tòa thì cũng chỉ gây khó khăn, kéo dài thời gian xét xử thôi.
    Hạnh hãy xem xét quyết định.
    Chúc may mắn!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 10:34:57 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào Thao0707!

    Yêu cầu của bạn tôi trả lời như sau:

    Tại Điều 81 Luật Bảo hiểm xã hội quy định điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp nêu rõ: “Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

    Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp;

    Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội;

    Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều này”

    Như vậy, trường hợp của bạn nếu đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp, đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp với cơ quan bảo hiểm xã hội, và chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp thì bạn sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

    Về điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số: 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2010 của Bộ lao động thương binh và xã hội về việc Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp

    Điều 2. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp

    Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp, khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, được hướng dẫn thực hiện như sau:

    1. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.

    Tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động được tính nếu người sử dụng lao động và người lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc ít nhất 01 ngày trong tháng đó.

    2. Đã đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây được viết tắt là Trung tâm Giới thiệu việc làm) khi mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.

    3. Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày tính theo ngày làm việc kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm theo quy định tại khoản 2 Điều này (ngày thứ nhất trong mười lăm ngày nêu trên là ngày ngay sau ngày người lao động đăng ký thất nghiệp, tính theo ngày làm việc).

    Ngày làm việc áp dụng cho tất cả các trường hợp trong Thông tư này là ngày làm việc từ ngày thứ hai đến hết ngày thứ sáu hằng tuần.

    Về thời hạn phải đăng ký để có thể hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định tại Điều 9 Thông tư số: 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2010 của Bộ lao động thương binh và xã hội theo đó thời hạn để người lao động đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp là trong thời hạn bảy ngày tính theo ngày làm việc, kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động phải trực tiếp đến Trung tâm Giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc để đăng ký thất nghiệp (ngày thứ nhất trong thời hạn bảy ngày là ngày làm việc ngay sau ngày người lao động bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc).

    Nếu bạn đã đủ điều kiện đựơc hưởng trợ cấp thất nghiệp, đề nghị bạn liên hệ trực tiếp với cơ quan bảo hiểm xã hội để được giải quyết tiền trợ cấp thất nghiệp.

    Chúc bạn may mắn!


  • Xem thêm     

    21/10/2011, 10:14:36 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Về nội dung em quan tâm tôi trả lời như sau:

    1. Thời hạn sử dụng đất đến năm 2058 là thời hạn nhà nước giao đất cho người sử dụng từ thời điểm giao đến năm 2058 hết thời hạn trên sẽ có các khả năng sau có thể xảy ra: Nhà nước thu hồi lại diện tích đất này để sử dụng hoặc giao cho người sử dụng khác sử dụng; Nhà nước tiếp tục giao đất cho người đang sử dụng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới hoặc gia hạn thời hạn sử dụng đất ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    2. Về việc chuyển mục đích sử dụng đất luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thực hiện không cấm tuy nhiên việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất có được hay không thì phải phụ thuộc vào các chính sách, kế hoạch, quy hoạch của địa phương nơi có thửa đất đó quy định tại Điều 30, Nghị định181/2004/ND-CP.
    Diện tích đât được phép chuyển đổi phải căn cứ vào quy định về hạn mức giao đất của địa phương nơi có đất.

    3. Các khoản tài chính liên quan đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất như sau:
    - 100% phần chênh lệch giữa giá trị sử dụng đất từ đất trồng cây lâu năm sang đất thổ cư (giá các loại đất được UBND tỉnh thành phố ban hành hàng năm);
    - Thuế chuyển quyền sử dụng đất 2%;
    - Lệ phí trước bạ 0.5 giá trị quyền sử dụng đất;
    - Lệ phí việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    4. Người sử dụng đất khi muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất thổ cư thường là có ý định xây dựng các công trình kiên cố trên đất trường hợp chỉ có ý định làm trang trại hoặc sinh thái nhà vườn thì không nhất định phải chuyển mục đích sử dụng đất sang đất thổ cư. Người sử dụng đất có thể theo nhu cầu thực tế của mình đồng thời phù hợp với quy định pháp luật về quản lý sử dụng đât đai.

    5.  Cơ quan giải quyết thủ tục này đối với trường hợp người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân thì thuộc thẩm quyền của UBND cấp quân huyện (Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất - Phòng tài nguyên môi trường), với tổ chức và nguời nước ngoài thì thẩm quyền thuộc UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Sở tài nguyên môi trường). Thời hạn để thực hiện các thủ tục này là 30 ngày làm việc kể từ khi cơ quan nhà nước nhận được hồ sơ hợp lệ (thời gian này không bao gồm thời gian nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác).

    6. Mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm, đất vườn và đất trang trại....đều là các loại đất không được xây dựng các công trình kiên cố và chỉ được sử dụng để sản xuất nông, lâm nghiệp. Chúng chỉ khác nhau về giá trị quyền sử dụng đất được quy định tại quyết định của địa phương nơi có đất./.

    Chúc em thành công!
  • Xem thêm     

    19/10/2011, 01:46:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Như tôi đã tư vấn việc UBND xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A là không đúng thẩm quyền vì vậy về nguyên tắc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông A không có giá trị pháp lý.
    Hiện tại việc gia đình bạn cần làm là đề nghị UBND cấp huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn.
    Hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bạn có thể mua tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc mua tại ban địa chính xã nơi bạn và gia đình sinh sống.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    18/10/2011, 05:04:41 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn sisapa!
    Theo quy định  tại Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định trường hợp hoãn phiên tòa phúc thẩm
    Người kháng cáo vắng mặt làn thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo người kháng cáo vắng.
    Mặc dù quy định là phải có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử mới hoãn phiên tòa, tuy nhiên trên thực tế mọi trường hợp vắng mặt lần thứ nhất mà không có đơn xin xử vắng mặt thì Tòa án vẫn hoãn phiên tòa và triệu tập lần hai.
    Thời hạn hoãn phiên tòa phúc thẩm được quy định theo điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là 30 ngày kể từ ngày có quyết định hoãn phiên tòa thì Tòa án phải mở lại phiên tòa để xét xử theo quy định./.
    Trường hợp người kháng cáo được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì tòa sẽ không xem xét đến nội dung kháng cáo đó nữa và phần này sẽ có hiệu lực pháp luật theo quy định./.
    Chúc bạn may mắn!








  • Xem thêm     

    18/10/2011, 09:23:26 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Các bạn nên cân nhắc và hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi xác lập các giao dịch dân sự để tránh xảy ra những rắc rối không đáng có.
    Chúc các bạn thành công!
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 04:42:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Với các thông tin bạn nêu tôi xin trả lời như sau:
    Thứ nhất về thửa đất trên được coi là tài sản của xã viên góp vào HTX để cùng sản xuất kinh doanh, về nguyên tắc và quy định về tổ chức hoạt động của HTX trong trường hợp HTX bị giải thể thì xã viên được nhận lại tài sản đã góp vào HTX.
    Thứ hai việc UBND xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A như vậy là chưa đúng pháp luật vì trải qua các thời kỳ từ Luật Đất Đai năm 1993 và các luật sửa đổi bổ sung luật đất đai năm 1993 và hiện tại luật đất đai năm 2003 thì UBND cấp xã không có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó việc đất đang có tranh chấp mà UBND xã vẫn cấp giấy chứng nhận cho ông A lại càng sai.
    Như vậy việc cấp giấy chứng nhận như bạn nêu là sai.
    Hiện tại nếu gia đình bạn muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trước hết phải giải quyết tranh chấp với gia đình ông A trước, sau đó mới có thể đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được./.
    Chúc bạn và gia đình sớm đạt được mục đích của mình. Nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục hỏi để được tư vấn.
  • Xem thêm     

    17/10/2011, 09:03:39 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Nếu còn vướng mắc,bạn có thể tiếp tục hỏi, rất vui vì có thể giúp tư vấn giúp bạn.
    Chúc bạn may mắn!
  • Xem thêm     

    16/10/2011, 08:50:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi tôi xin trả lờị như sau:
    Trước hết quan hệ của bạn với đại lý bưu điện là quan hệ dân sự, vì nguyên nhân nào đó dẫn đến việc bạn chưa thanh toán tiền cước phí thì đó là bạn vi phạm nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi công ty bưu chính. Đây hoàn toàn là quan hệ dân sự, các yếu tố hình sự rất khó để được xem xét trong vụ việc này. Vì vậy hành vi của bạn chưa đủ các yếu tố cấu thành của tội phạm nên sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự./.
    Chúc bạn sớm giải quyết được vụ việc!
     
  • Xem thêm     

    14/10/2011, 11:43:25 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Theo quy định tại khoản 4, điều 4, Nghị định số 44/2003 về hướng dẫn thực hiện bộ luật lao động về Hợp đồng lao động và thời gian làm việc quy định hình thức và thời hạn hợp đồng như sau:
    Khi hợp đồng lao động quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới. Trong thời gian chưa ký được hợp đồng lao động mới, hai bên phải tuân theo hợp đồng lao động đã giao kết.
    Khi hết thời hạn 30 ngày mà không ký hợp đồng lao động mới, hợp đồng lao động đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Trường hợp ký hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn, thì chỉ được ký thêm một thời hạn không quá 36 tháng, sau đó nếu người lao động tiếp tục làm việc thì ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn; nếu không ký thì đương nhiên trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

    Điều luật quy định trong thời gian 30 ngày làm việc nếu tiếp tục sử dụng người lao động thì người sử dụng lao động phải ký hợp đồng lao động xác định thời hạn mới trường hợp không ký hợp đồng xác định thời hạn mới mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì hợp đồng lao động đã hết hạn mặc nhiên trở thành hợp đồng không xác định thời hạn.
    Nếu hết thời hạn của hợp đồng hiện tại thì người sử dụng lao động có thể tiếp tục ký với bạn một hợp đồng lao động xác định thời hạn mới và không quá 36 tháng do đó việc ký hợp đồng xác định thời hạn thứ hai với bạn là không sai.
    Các chế độ của bạn sẽ không bị ảnh hưởng gì trừ trường hợp cơ quan đó không đóng bảo hiểm cho người lao động.
    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    14/10/2011, 09:55:41 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại mỗi địa phương có những quy định không thống nhất như hạn mức giao đất, giá trị quyền sử dụng đất..... vì vậy để trả lời là đúng hay sai trong trường hợp này thì tôi không khẳng định, tôi sẽ nêu các khoản người sử dụng đất phải nộp cho nhà nước khi đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:
    - Lệ phí trước bạ = 0.5% giá trị quyền sử dụng đất;
    - Lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
    - Các khoản thuế và lệ phí mà người sử dụng đất còn nợ nhà nước.
    Thực tế với diện tích 600m2, khi tính tất cả các khoản thì số tiền chắc cũng tương đương với trả lời của cán bộ địa chính phường nơi bạn đang sinh sống.
    Về trình tự thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
    Người sử dụng đất nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã phường nơi có đất;
    Thời gian để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay được quy định là 33 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan nhà nước nhận được hồ sơ hợp lệ.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    14/10/2011, 09:44:17 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi tôi xin trả lời như sau:

    Thứ nhất, về trợ cấp thôi việc:

    Tại Điều 42 Bộ luật Lao động quy định như sau: “Khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, từ một năm trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có”

    Tại khoản 2 Điều 41 Bộ luật Lao động quy định: “Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc

    Thứ hai, về trợ cấp thất nghiệp:

    Tại Điều 81 Luật Bảo hiểm xã hội quy định điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp nêu rõ: “Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

    Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp;

    Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội;

    Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều này”.

    Căn cứ các quy định trên và thông tin bạn cung cấp thì bạn chỉ có thể được doanh nghiệp thanh toán tiền trợ cấp thôi việc và được nhận sổ bảo hiểm. Về Trợ cấp thất nghiệp thì bạn không đủ điều kiện để được hưởng khoản trợ cấp này.
    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    14/10/2011, 09:28:52 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Em không cho chúng tôi biết địa chỉ thửa đất của gia đình em nhưng với thông tin em cung cấp tôi có thể hiểu là diện tích gia đình em đang sử dụng là 400m2 nhưng chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với mục đích sử dụng ổn định lâu dài (đất thổ cư) là 180 m2.... Theo quy định tại Quyết định số 58/2009/QĐ-UB ngày 30/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội thì hạn mức giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người sử dụng đất tại các xã đồng bằng là 180m2 do vậy gia đình em mới chỉ được cấp 180m2 là đất thổ cư, phần còn lại chưa được cấp thì cơ quan nhà nước sẽ ghi mục đích sử dụng là gì đất ao, vườn.....
    220m2 còn lại gia đình em vẫn được sử dụng bình thường nhưng không phải là với mục đích là đất thổ cư, gia đình em vẫn tiếp tục được sử dụng nếu nhà nước không có quyết định thu hồi.
    Chúc em may mắn!
  • Xem thêm     

    14/10/2011, 09:17:40 SA | Trong chuyên mục Lao động

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào em!
    Với những thông tin em cung cấp thì rõ ràng những quy định và phương pháp tính của doanh nghiệp nơi em đang làm việc là không đúng với các quy định của pháp luật lao động về hợp đồng lao động và thời gian làm việc.
    1. Về hợp đồng lao động được quy định như sau:
    Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật Lao động, Nghị định 44/2003/ND-CP và Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH với hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên thì bắt buộc phải ký hợp đồng lao động.
    Như vậy với thực tế tại doanh nghiệp em đang làm việc họ chưa ký hợp đồng là trái với các quy định hiện hành của luật lao động. Về việc này người lao động có quyền yêu cầu được ký hợp đồng để người sử dụng lao động tổ chức ký hợp đồng lao động. Trong trường người sử dụng lao động vẫn không chịu ký hợp đồng thì em và những người lao động trong công ty có thể đề nghị các cơ quan chức năng can thiệp.
    2. Về thời gian làm việc và thời gian làm thêm được quy định tại Điều 68 và 69 Bộ luật lao động nội dung như sau:

    Điều 68

    1- Thời giờ làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần, nhưng phải thông báo trước cho người lao động biết.

    2- Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.

    Điều 69

    Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận làm thêm giờ, nhưng không được quá bốn giờ trong một ngày, 200 giờ trong một năm.

    Về thời gian làm thêm giờ được hướng dẫn tại Nghị định 109/2002 ngày 27/12/2002 như sau:

    1. Thời giờ làm thêm không được vượt quá 50% số giờ làm việc được quy định trong mỗi ngày đối với từng loại công việc. Trong trường hợp quy định thời giờ làm việc theo tuần thì tổng cộng thời giờ làm việc bình thường và thời giờ làm thêm trong một ngày không vượt quá 12 giờ. Tổng số thời giờ làm thêm trong một năm không vượt quá 200 giờ, trừ các trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 3 Điều này.

    2. Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận làm thêm không quá 200 giờ trong một năm theo quy định tại khoản 1 Điều này trong các trường hợp sau:

    - Xử lý sự cố trong sản xuất;

    - Giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn;

    - Xử lý kịp thời các mặt hàng tươi sống, công trình xây dựng và sản phẩm do yêu cầu nghiêm ngặt của công nghệ không thể bỏ dở được;

    - Giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời được.

    3. Trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ trong một năm, được quy định như sau:

    A) Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh có sản xuất hoặc gia công hàng xuất khẩu, bao gồm sản phẩm: dệt, may, da, giày và chế biến thuỷ sản nếu phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do yêu cầu cấp thiết của sản xuất hoặc do tính chất thời vụ của sản xuất hoặc do yếu tố khách quan không dự liệu trước thì được làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm, nhưng phải thực hiện đúng các quy định sau:

    - Phải thoả thuận với người lao động;

    - Nếu người lao động làm việc trong ngày từ 10 giờ trở lên thì người sử dụng lao động phải bố trí cho họ được nghỉ thêm ít nhất 30 phút tính vào giờ làm việc, ngoài thời giờ nghỉ ngơi trong ca làm việc bình thường;

    - Trong 7 ngày liên tục, người sử dụng lao động phải bố trí cho người lao động được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục.

    B) Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh khác có các điều kiện như các doanh nghiệp, cơ sở quy định tại điểm a của Khoản này, nếu có nhu cầu làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm, thì:

    - Đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc Bộ, ngành quản lý phải xin phép và được sự đồng ý của Bộ, ngành quản lý đó;

    - Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh khác phải xin phép và được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

    4. Trong trường hợp phải khắc phục hậu quả nghiêm trọng do thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh trong phạm vi doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thì người sử dụng lao động được phép huy động làm thêm giờ vượt quá quy định tại khoản 1 của Điều này, nhưng phải được sự thỏa thuận của người lao động."

    Theo các quy định về thời gian làm thêm giờ thì người sử dụng lao động có thể yêu cầu người lao động làm thêm tổng số 200 giờ trên một năm, các trường hợp khác đều phải thỏa thuận với người lao động về thời gian vượt quá. Như vậy nếu công ty của em không có sự thỏa thuận với người lao động và số giờ lao động vượt quá 200 giờ/1năm là vi phạm pháp luật lao động về thời gian làm thêm.

    3. Vấn đề tiền lương trong thời gian làm thêm giờ.
    Điều 61 Bộ luật lao động quy định về việc trả lương đối với thời gian làm thêm giờ theo đó người lao động được trả lương ít nhất bằng 150% của tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường.
    Như vậy việc công ty em chỉ tính và trả lương cho người lao động theo ngày làm việc bình thường là không đúng.

    Căn cứ quy định pháp luât, căn cứ tình hình thực tế tại công ty của em có thể nói rằng công ty em đang vi phạm nhiều nội dung của pháp luật lao động.
    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình người lao động trong công ty em cần phải yêu cầu công ty thực hiện đúng các quy định của pháp luật lao động hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền can thiệp./.
    Chúc em may mắn!


  • Xem thêm     

    11/10/2011, 10:18:01 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    Về điều kiện để được bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều 8, Nghị định 197/2004/ND-CP như sau:

    Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:

    1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

    2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.

    5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này, nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó không có tranh chấp.

    7. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

    8. Hộ gia đình cá nhân sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp.

    9. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.

    10. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

    11. Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

    a) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

    b) Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước;

    c) Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.

    Căn cứ quy định trên thì gia đình bạn sẽ được nhận tiền bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất./.

  • Xem thêm     

    10/10/2011, 08:45:18 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần
    Lawyer

    Chào bạn!
    1. Trường hợp tặng cho tài sản.
    Pháp luật không quy định những người cho tặng tài sản phải thực hiện thủ tục tặng cho tài sản tại nơi có tài sản. Do đó việc tặng cho tài sản giữa hai dì cháu nhà T không nhất thiết phải vào thành phố Hồ Chí Minh.
    Về thủ tục tặng cho tài sản:
    Hợp đồng tặng cho tài sản phải được lập thành văn bản và được công chứng;
    Người tặng cho tài sản phải xuất trình được những giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của mình đối với tài sản cho tặng người khác;
    Thủ tục chi tiết bạn có thể liên hệ trực tiếp tại phòng công chứng.
    2. Do T và C chưa đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vì vậy nếu có tranh chấp tài sản thì sẽ không áp dụng các quy định của luật hôn nhân và gia đình để giải quyết vấn đề tài sản chung mà sẽ áp dụng các quy định của luật dân sự để giải quyết. Có nghĩa là hai người phải chứng minh tài sản nào là tài sản của mình bằng các giấy tờ, chứng cứ....
    Do hai người có một con chung nên T sẽ phải cùng C có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với đứa trẻ đến khi nó đủ 18 tuổi.