(1) Cha mẹ có thể lập hợp đồng tặng cho có điều kiện, đòi hỏi con cái phải có nghĩa vụ nhất định nếu muốn thừa hưởng phần tài sản cha mẹ để lại
=> Căn cứ điều 462 Bộ luật Dân sự 2015, bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho.
Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Chẳng hạn trong hợp đồng tặng cho có điều kiện này, cha mẹ đưa ra điều kiện con cái phải có nghĩa vụ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ, không được ép buộc cha mẹ ra khỏi nhà, hoặc yêu cầu sau khi cha mẹ chết thì phải dùng tài sản để làm một công việc nhất định.
(2) Cha mẹ có toàn quyền quyết định sẽ để lại nhà đất cho 01 người con, một số người con hoặc toàn bộ con cái. (Vì bản chất của việc tặng cho phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của bên tặng cho)
(3) Hiệu lực của hợp đồng tặng cho có thể bắt đầu ngay cả khi cha mẹ chưa chết.
|
(1) Sẽ đảm bảo việc các con cùng được nhận phần di sản bằng nhau
=> Căn cứ Khoản 2 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 thì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
(2) Căn cứ Khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 thì có 3 trường hợp sau đây con cái không có tư cách nhận thừa kế:
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ cha mẹ, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của cha mẹ
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng những đồng thừa kế khác để hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản của đồng thừa kế
|
(1) Cha mẹ có toàn quyền quyết định sẽ để lại nhà đất cho 01 người con, một số người con hoặc toàn bộ con cái. Trừ trường hợp con dưới 18 tuổi hoặc trên 18 tuổi nhưng mất khả năng lao động (người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc).
(2) Để lại di chúc cũng khá giống với tặng cho không có điều kiện. Tuy nhiên nó có điểm khác biệt là nếu để lại di chúc thì con cái vẫn có khả năng không được nhận di sản thừa kế khi rơi vào các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, đặc biệt là trường hợp con cái có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của cha mẹ
|