Hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan về quyền đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình để lấp đầy khoảng trống pháp lý nhằm bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, việc nghiên cứu và xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là cần thiết bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, hiện nay Việt Nam đã công nhận và bảo hộ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên ngành, cụ thể:
Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn;
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”.
Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
Khoản 2 Điều 46 Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Điều 16 Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 quy định nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng, theo đó:
“1. Cá nhân tự bảo vệ thông tin cá nhân của mình và tuân thủ quy định của pháp luật về cung cấp thông tin cá nhân khi sử dụng dịch vụ trên mạng.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với thông tin do mình xử lý.”
Điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác…”
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Tại Điều 17 Công ước khẳng định:
“(1) Không ai bị can thiệp một cách độc đoán và bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín; hoặc bị xúc phạm một cách bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.
(2) Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự can thiệp và xúc phạm như vậy”.
Thứ hai, mặc dù đã được công nhận và bảo hộ song trên thực tiễn khi áp dụng còn nhiều lúng túng, khó triển khai áp dụng, đồng thời chưa có sự định hướng hành vi và chế tài đối với hành vi vi phạm.
Ví dụ:
- Điểm thi của học sinh có phải là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư không?
Trong thời gian qua, Bộ GDĐT, trường THPT và báo chí quan tâm khi công khai điểm thi tốt nghiệp THPT của thí sinh.
Bởi theo Điều 33 Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em có quy định:
“Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em.”
Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.
- Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không?
Xuất phát từ việc ngày 03/01/2007, Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí chưa có ranh giới rõ ràng?
Việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội có bị xem là xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh hay không?
Thứ ba, pháp luật các quốc gia trên thế giới về bảo vệ quyền về đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình khá phát triển.
Cụ thể, quyền về đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đã được ghi nhận và hướng dẫn cụ thể trong hiến pháp hoặc một đạo luật riêng hoặc thể hiện thông qua việc vận dụng các án lệ của thẩm phán khi xét xử.
Ví dụ:
Hiến pháp Nhật tại Điều 13 ghi nhận rằng công dân có quyền sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân.
Đây là quy định làm nền tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về quyền bí mật đời tư như: Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà của người khác, nghiêm cấm nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá nhân của người khác.
Thứ tư, cần chú trọng các đối tượng chịu tác động trực tiếp và nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, LGBTI,… và trong từng lĩnh vực cụ thể như bảo vệ bí mật cá nhân trên Internet, lĩnh vực y tế, báo chí, tín dụng hoặc khi tham gia tố tụng,…
Theo các bạn còn lý do gì nữa không?
(Bài viết tham khảo từ Ngô Thu Trang và Nguyễn Kim Thoa thuộc Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế)