Công ty cổ phần M.C khởi kiện Công ty TNHH Nobland Việt Nam về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ

Chủ đề   RSS   
  • #263519 23/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Công ty cổ phần M.C khởi kiện Công ty TNHH Nobland Việt Nam về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ

    Số hiệu

    7/KTST

    Tiêu đề

    Công ty cổ phần M.C khởi kiện Công ty TNHH Nobland Việt Nam về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ

    Ngày ban hành

    21/01/2005

    Cấp xét sử

    Sơ thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Công ty cổ phần M.C ký hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ cho Công ty TNHH Nobland Việt Nam với thời hạn một năm. Công ty ty M.C đã cử lực lượng bảo vệ gồm 23 người xuống bảo vệ 7 vị trí đã được hai bên xác định.

    Trong thời gian thực hiện hợp đồng, nhân viên bảo vệ của Cty M.C đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao nhưng không hiểu nguyên nhân vì sao  Tổng giám đốc Cty Nobland VN lại gửi fax đề nghị chấm dứt hợp đồng đang còn hiệu lực pháp lý.

    Nguyên đơn cho rằng đề nghị chấm dứt hợp đồng của Cty Nobland VN không được thông báo trước và không có lý do chính đáng nên đã khởi kiện.

    Nguyên đơn : Yêu cầu Cty Nobland VN phải bồi thường thiệt hại ngay cho Cty M.C số tiền tương đương 29.991, 50 USD bằng tiền đồng VN theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương VN (Chi nhánh TPHCM) tại thời diểm thanh toán (tương ứng thời gian còn lại của hợp đồng chưa được thực hiện là 9 tháng 15 ngày).

    Bị đơn: Cty Nobland VN xác nhận có ký kết và thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ nói trên với Cty M.C, tuy nhiên không chấp nhận bồi thường thiệt hại vì nhân viên bảo vệ do Cty M.C cung cấp không có tính chuyên nghiệp cao và việc chấm dứt hợp đồng cũng đã được báo trước một tháng.

    Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH Nobland Việt Nam phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cổ phần M.C bằng tiền đồng Việt Nam số tiền tương đương 29.991,50 USD theo tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương VN (Chi nhánh TPHCM) tại thời điểm thanh toán do đã đơn phương đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ.


    Bản án số : 7/KTST Ngày : 21/01/2005 v/v  tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ

    Căn cứ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số32/QĐ-ĐXX ngày 17 tháng 01 năm 2005, đã mở phiên tòa ngày 21 tháng 01 năm 2005 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ giữa:

    Nguyên đơn : CÔNG TY CỔ PHẦN M.C.

    Địa chỉ : H10A Đường D2, khu Văn Thánh Bắc, Q. Bình Thạnh, TPHCM

    Đại diện : Ông Nguyễn Văn Thức, Chủ tịch HĐQT (Có mặt)

    Bị đơn : CÔNG TY TNHH NOBLAND VIỆT NAM.

    Địa chỉ : 1-8 A1 KCN Tân Thới Hiệp, P. Hiệp Thành, Q 12, TPHCM

    Đại diện: Bà Nguyễn Thị Thúy, GUQ ngày 20/10/2004 (Có mặt)
    Có ông Nguyễn Hồng Hải cùng dự theo GUQ ngày 20/10/2004

    Bảo vệ quyền lợi cho bị đơn : Luật sư Nguyễn Đăng Trừng

    NỘI DUNG VỤ ÁN

    Theo nguyên đơn trình bày :

    Ngày 22/6/2004, Công ty cổ phần M.C có ký Hợp đồng số 57/HĐBV - 04 cung ứng dịch vụ bảo vệ cho Công ty TNHH Nobland Việt Nam với thời hạn một năm. Ngày 28/6/2004, Cty M.C đã cử lực lượng bảo vệ gồm 23 người xuống bảo vệ 7 vị trí đã được hai bên xác định.

    Trong thời gian thực hiện hợp đồng, nhân viên bảo vệ của Cty M.C đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao nhưng không hiểu nguyên nhân vì sao, vào lúc 7 giờ 51 phút ngày 11/8/2004, ông Tổng giám đốc Cty Nobland VN lại gửi fax (đề ngày 10/8/2004) đề nghị chấm dứt hợp đồng đang còn hiệu lực pháp lý kể từ lúc 14 giờ ngày 11/8/2004.

    Do đề nghị chấm dứt hợp đồng của Cty Nobland VN không được thông báo trước và không có lý do chính đáng nên ngay buổi sáng ngày 11/8/2004, Cty M.C đã có fax cho Cty Nobland VN đề nghị lãnh đạo 2 bên có một cuộc họp bàn bạc để giải quyết vấn đề trên với tinh thần xây dựng và hợp tác. Sau khi trao đổi, hai bên đã có biên bản thống nhất cách giải quyết là : Cty Nobland VN tạm thời ngưng việc bàn giao và Cty M.C vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tại Cty Nobland VN đến ngày 11/9/2004 để chờ hai đơn vị có cuộc họp thống nhất cách giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo vệ đã ký.

    Ngày 06/9/2004, Cty M.C có văn bản đề nghị Cty Nobland VN cho biết quan điểm và xác nhận lại có tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo vệ đã ký hay không. Cũng trong ngày 06/9/2004, Cty M.C có nhận được bản fax của Cty Nobland VN do ông Giám đốc điều hành ký và đóng dấu treo xác nhận Cty Nobland VN vẫn duy trì quyết định chấm dứt và tiến hành thanh lý hợp đồng.

    Do Cty Nobland VN đơn phương chấm dứt hợp đồng từ ngày 11/9/2004 nên Cty M.C đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Cty Nobland VN phải bồi thường giá trị hợp đồng đối với thời gian còn lại trong hiệu lực của hợp đồng (9 tháng 15 ngày), thành tiền tương đương 29.991,50 USD.

    Theo bị đơn trình bày :

    Cty Nobland VN xác nhận có ký kết và thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ nói trên với Cty M.C cho đến ngày 11/9/2004. Cty Nobland VN không chấp nhận bồi thường thiệt hại cho Cty M.C vì nhân viên bảo vệ do Cty M.C cung cấp không có tính chuyên nghiệp cao và việc chấm dứt hợp đồng cũng đã được báo trước một tháng (từ 11/8/2004 đến 11/9/2004).

    Tòa án nhân dân TPHCM đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến.

    Tại phiên tòa hôm nay :

    Nguyên đơn : Yêu cầu Cty Nobland VN phải bồi thường thiệt hại ngay cho Cty M.C số tiền tương đương 29.991, 50 USD bằng tiền đồng VN theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương VN (Chi nhánh TPHCM) tại thời diểm thanh toán (tương ứng thời gian còn lại của hợp đồng chưa được thực hiện là 9 tháng 15 ngày).

    Bị đơn : Không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn vì chất lượng dịch vụ của Cty M.C không cao và Cty Nobland VN cũng đã có báo trước một tháng đúng theo hợp đồng đã ký.

    Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn :

    + Cty Nobland VN không đơn phương chấm dứt hợp đồng mà có báo trước cho Cty M.C (theo Biên bản cuộc họp giữa 2 bên ngày 11/8/2004).

    + Cty Nobland VN chấm dứt hợp đồng là có lý do chính đáng : đó là tính chuyên nghiệp của nhân viên bảo vệ của Cty M.C chưa cao (đã được chính Cty M.C thừa nhận tại Biên bản cuộc họp ngày 11/8/2004) .

    + Việc chấm dứt hợp đồng trước hạn có sự chấp thuận của Cty M.C, thể hiện ở 3 hành vi :

    · Ký biên bản ngày 11/8/2004.

    · Ký biên bản bàn giao ngày 11/9/2004.

    · Đã nhận đủ tiền dịch vụ do Cty Nobland VN thanh toán.

    Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

    *

    * *

    Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa,

    Sau khi nghe các đương sự và Luật sư trình bày ý kiến,

    Sau khi thảo luận và nghị án,

    TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    NHẬN ĐỊNH

    Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định :

    1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :

    Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có trụ sở tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 29, Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM theo thủ tục tố tụng dân sự.

    2. Về thời hiệu khởi kiện :

    Ngay sau khi phát sinh tranh chấp trong tháng 9/2004, Cty M.C đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án. Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

    3. Về nội dung tranh chấp :

    Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi Cty Nobland VN phải bồi thường thiệt hại số tiền tương đương với phần trị giá hợp đồng tương ứng với thời gian còn lại chưa được thực hiện (9 tháng 15 ngày) do Cty Nobland VN đơn phương chấm dứt hợp đồng trước hạn là 29.991,50 USD :

    Căn cứ thỏa thuận tại các khoản 1, 2 và 3 Điều V của hợp đồng đã ký giữa các bên cũng như quy định của pháp luật tại các điều 4, 22 và 27 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng của Cty Nobland VN từ ngày 11/9/2004 (trong khi hợp đồng còn có hiệu lực đến ngày 28/6/2005) là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật, vi phạm khoản 4 Điều II, khoản 2 Điều III, Điều IV, Điều V và Điều VI của hợp đồng.

    Do đó, căn cứ vào thỏa thuận tại khoản 4 Điều V của hợp đồng đã ký và quy định của pháp luật tại các điều 29, 36 và 37 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Điều 14 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, yêu cầu đòi bồi thường nói trên của Cty M.C là có cơ sở, cần được chấp nhận.

    Về ý kiến của Cty Nobland VN và luật sư bảo vệ quyền lợi cho công ty cho rằng do nhân viên bảo vệ của Cty M.C không có tính chuyên nghiệp cao (mặc dù đã được yêu cầu thay thế và khắc phục) và Cty Nobland VN đã có báo trước một tháng nên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước hạn mà không phải bồi thường thiệt hại cho Cty M.C :

    Ý kiến này không có cơ sở để được chấp nhận vì tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án tại Tòa án, Cty Nobland VN không đưa ra được chứng cứ nào để chứng minh Cty M.C vi phạm hợp đồng về chất lượng dịch vụ cung cấp hoặc chứng minh có lý do chính đáng khác, đồng thời việc chấm dứt hợp đồng trước hạn cũng chưa được Cty M.C chấp thuận theo khoản 3 Điều V của hợp đồng. Việc Cty M.C thừa nhận tại cuộc họp ngày 11/8/2004 rằng lực lượng bảo vệ của công ty có tính chuyên nghiệp chưa cao không có nghĩa là Cty M.C đã thừa nhận mình vi phạm hợp đồng hoặc việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của Cty Nobland VN là có lý do chính đáng vì trong hợp đồng (tại Điều I) các bên chỉ thỏa thuận bên A (Cty M.C) cam kết cung cấp dịch vụ bảo vệ chuyên nghiệp, không có cam kết cung cấp dịch vụ có tính chuyên nghiệp cao.

    Mặt khác, ngay tại thời điểm thông báo đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng (11/8/2004) và suốt 30 ngày sau đó (đến 11/9/2004), Cty Nobland VN đã hoàn toàn không có văn bản nào khiếu nại về chất lượng dịch vụ bảo vệ do Cty M.C cung cấp và cũng không đưa ra bất cứ lý do nào nhằm giải thích quyết định đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng của mình để nghe ý kiến của bên cùng ký hợp đồng với mình trả lời có chấp nhận khiếu nại hay không.

    Hơn nữa, nếu cho rằng Cty Nobland VN đơn phương chấm dứt hợp đồng là do chất lượng dịch vụ bảo vệ của Cty M.C không đatï yêu cầu theo hợp đồng (dù đã được yêu cầu thay người và khắc phục) thì sẽ mâu thuẫn với ý kiến của chính Cty Nobland VN tại phiên hòa giải ngày 22/11/2004 tại Tòa án : tại phiên hòa giải này, chính Cty Nobland VN đã đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng với Cty M.C (với các điều kiện như cũ, không phải ký lại hợp đồng) và sẽ tiếp tục thanh toán tiền dịch vụ cho Cty M.C kể từ ngày các bên thỏa thuận thực hiện tiếp. Điều đó chứng tỏ chất lượng dịch vụ bảo vệ do Cty M.C cung cấp đã đ��ợc chính Cty Nobland VN tín nhiệm và chấp nhận (nên mới đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng).

    Về ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn cho rằng việc chấm dứt hợp đồng trước hạn đã có sự chấp thuận của Cty M.C (thể hiện ở 3 hành vi) : Ý kiến này là không có cơ sở bởi các lẽ :

    - Theo Biên bản cuộc họp ngày 11/8/2004, ngay lúc đó, đại diện Cty M.C cũng đã có ý kiến khẳng định : Việc Cty Nobland VN đơn phương quyết định chấm dứt hợp đồng là việc làm vi phạm Điều 5 của hợp đồng và nếu không thống nhất được với nhau thì Cty M.C sẽ đưa việc này ra cơ quan pháp luật VN đề nghị giải quyết. Cuối cuộc họp, các bên cũng chỉ tạm thời thống nhất : “Hai đơn vị sẽ có các cuộc họp để thống nhất cách giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo vệ đã ký kết”, hoàn toàn không có ý kiến nào của Cty M.C chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng trước hạn.

    - Ngay trước ngày ký biên bàn bàn giao (11/9/2004), Cty M.C cũng đã có Văn thư số70/CV-04 ngày 07/9/2004 gửi Cty Nobland VN tái khẳng định quan điểm của mình là quyết định chấm dứt hợp đồng của Cty Nobland VN là một hành động đơn phương và vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký. Việc Cty M.C đáp ứng yêu cầu bàn giao của Cty Nobland VN là vì tôn trọng khách hàng, chứ hoàn toàn không có nghĩa là sự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.

    - Việc nhận tiền dịch vụ theo hợp đồng do Cty Nobland VN thanh toán cũng không có nghĩa là Cty M.C đã chấp nhận chấm dứt hợp đồng trước hạn vì đó chỉ là khoản tiền dịch vụ đã được thực hiện tính đến ngày 11/9/2004 là ngày Cty Nobland VN đơn phương chấm dứt hợp đồng, không phải là khoản tiền thanh lý hợp đồng. Đây cũng chỉ là hành vi thanh toán bình thường trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, dù cho hợp đồng có được tiếp tục thực hiện hay không.

    4. Về án phí:

    Căn cứ vào khoản 1, Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :

    - Cty Nobland VN là bên thua kiện trong vụ án này nên phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho Cty M.C.

    - Cty M.C không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

    Từ những nhận định trên,

    Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản;

    TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH Nobland Việt Nam phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cổ phần M.C bằng tiền đồng Việt Nam số tiền tương đương 29.991,50 USD (hai mươi chín ngàn chín trăm chín mươi mốt đô la Mỹ năm mươi xen) theo tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương VN (Chi nhánh TPHCM) tại thời điểm thanh toán do đã đơn phương đình chỉ thực hiện Hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ số 57/HĐBV – 04 ngày 22/6/2004 giữa hai bên.

    2. Về án phí :

    Công ty TNHH Nobland Việt Nam phải chịu án phí sơ thẩm là 17.205.000 đ (mười bảy triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).

    Công ty cổ phần M.C được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 8.607.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 004941 ngày 17 tháng 9 năm 2004 của Phòng thi hành án TPHCM).

    3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty cổ phần M.C, nếu Công ty TNHH Nobland VN không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 23/05/2013 11:27:58 SA
     
    67059 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #367659   14/01/2015

    NgoThuyKhanh
    NgoThuyKhanh
    Top 150
    Lớp 3

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/02/2009
    Tổng số bài viết (645)
    Số điểm: 4553
    Cảm ơn: 158
    Được cảm ơn 241 lần


    Dụ này bên bị đơn thua chắc là do thời điểm đó luật cũ chưa có quy định. Còn theo BLDS 2005 thì  bên yêu cầu dịch vụ hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dức HĐ khi không có nhu cầu. 

    Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt

    Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng

    Ôi Tổ Quốc nếu cần, ta chết

    Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...

     
    Báo quản trị |