Tiếp theo và .... tạm dừng
Tại Sơ thẩm lần hai : ( Như tôi đã viết lại trong thời gian qua ) .
Thẩm phán cấp sơ thẩm lần hai là bà Nguyễn Thị Sáu .
Ở cấp Sơ thẩm này . Từ ngày Toà Sơ thẩm thụ lý đơn cho đến ngày 10/12/2010 (phiên đầu tiên) thời hạn giải quyết để đưa được vụ án ra xét xử là hơn 02 năm
Thực tế thì tháng trước đó Toà Sơ thẩm đã mở phiên xét xử. Nhưng Nguyên đơn công bố vào ngày mở phiên xét xử và xin hoãn với lý do là “ Ls của Nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Thơ (đoàn Ls Khánh Hoà) bất ngờ bị bệnh ung thư, Nguyên đơn chưa tìm được Ls khác nên xin hoãn . ( Cô bạn tôi nói rằng : may phước cho ông Thơ không tiếp tục làm Ls cho thằng “điên” này, và cô ấy nói em sẽ góp lời cầu Nguyện với Phật Dược Sư cầu cho Ls Thơ mau hết bệnh.
( Ngoài lề) : Quả thật, nếu Ls Thơ đúng là bị ung thư, cũng giống chồng tôi (người đi cùng cô Bị đơn ) ngày " định mệnh" có chứng kiến cô bị Nguyên đơn đe dọa lúc ấy và cũng đã bảo cô “đối chiếu thôi, đâu còn có đó, kệ nó ký và cứ giữ mạng sống trước về với con đã “ sẵn sàng ra Toà làm chứng) . Chồng tôi bị ung thư đầu tụy ở giai đoạn cuối. Nhưng cũng được ơn lớn của Đấng bề trên từ những cầu nguyện của bạn bè, chồng tôi hiện nay đã khỏi hẳn và không còn thấy khối u nữa, cho đến giờ phút này nếu Toà mời chồng tôi cũng vẫn sẵn sàng ra toà làm chứng .
Trong những ngày Sơ thẩm 2 :
Hồ sơ chứng cứ theo cô bạn và những sao chụp cô ấy mang về nhà tôi xem chẳng có gì mới hơn Sơ thẩm 1 và Phúc Thẩm hủy án . Chỉ trừ một số yêu cầu của hai bên về giám định mà cũng gần cuối năm 2010 với yêu cầu nhiều lần của Bị đơn đề nghị đối chiếu , nhưng tình trạng đối chiếu đi vào ngõ cụt thì cô Bị đơn ( theo ý kiến của một Luật sư dấu tên trên diễn đàn đã đề nghị kiểm toán và đọc lại cộng lại từng bút lục có trong hồ sơ vụ án do Nguyên đơn nộp) tôi sẽ viết lại ý kiến của Ls dấu tên này ở cuối bài
- Nguyên đơn yêu cầu : Giám định coi hai con dấu đóng trên hợp đồng có giống nhau không? ( không có mẫu dấu gốc của Cty nước ngoài ) ????, nhưng CA TP Hồ Chí Minh cũng giám định được là nó không đóng ra cùng 1 con dấu ???
- Bị đơn yêu cầu 02 vấn đề:
++++ 1/ Yêu cầu Toà án đề nghị Cty Hoàng Lê nộp báo cáo Thuế ( bởi không lý nào khoản tiền to “ vật vã” thế lại không có báo cáo thuế ??? và nếu báo cáo thuế xuất hiện chắc chắn phải có số gọi là “ nợ khách hàng chưa trả” và cũng sẽ biết năm 1996-1997-1998-1999 Cty Hoàng Lê xuất khẩu thế nào? Có đúng như họ khai với Toà án không ? )
+++++2/ Đề nghị Toà án công bằng xác minh tính chính xác, sự trung thực , hợp lý và minh bạch của các số liệu , tính pháp lý của các báo cáo tài chính thuế của Cty Hoàng Lê yêu cầu Toà án cho kiểm toán toàn bộ những chứng cứ chứng minh của Cty Hoàng Lê có trong hồ sơ vụ án để kiểm toán đơn vị trung gian này sẽ có ý kiến về sự trung thực các con số, sự hợp lý bình thường của các số liệu kế toán có đúng có các khoản nợ của cá nhân Bị đơn phải trả không? Có đúng có đối chiếu không ? ( cho dù những bản đối chiếu này Bị đơn không uỷ quyền cho họ được quyền ký đối chiếu ) . Kiểm Toán trả lời bằng văn bản : Không kiểm toán trên những giấy tờ Photocopi .
Quá trình điều tra xét xử lại theo Quyết định của Toà án cấp Phúc thẩm tối cao : bà Thẩm phán Nguyễn Thị Sáu nhiều lần tổ chức cho hai bên đối chiếu chứng từ và số liệu. Nhưng không có kết quả, có những ngày làm việc giữa Thẩm phán, Nguyên Đơn , Bị đơn từ 2h đến 5h chiều không kết quả ( vì lấy gì làm bằng mà có kết quả ).
( ngoài lề) Người không được quyền ký đối chiếu thì ký, mà chắc đúng cô ấy ký không ? ( chết rồi lấy gì mà cho rằng cô ấy ký ) hay là vì chết rồi nên mang cô ấy ra làm bình phong ? …. Hơn nữa, tất cả những tờ gọi là “đối chiếu” gửi đích danh Cty Gesey ( chứ không phải gửi đích danh bà H ) để mà cho rằng “ bà H có giao dịch mua bán và phát sinh nợ “ những đối chiếu kiểu này đương nhiên có thể hiện những khoản tiền gọi là “số dư nợ “ . Tuy nhiên 1 điều lạ lùng khi so sánh là : +++++có những tờ trong cùng 1 ngày thể hiện lúc ký với ông chồng GĐ số liệu khác, lúc ký với bà vợ chả có chức vụ gì trong công ty lại số liệu khác ( mà người ký là người chỉ có mỗi nhiệm vụ kiểm tra chất lượng, số lượng hàng) chứ không có nhiệm vụ ký đối chiếu (đó là trường hợp bà ĐTV – 1 trong những người được bà H uỷ quyền ) .+++ Có 1 tờ đối chiếu công nợ với khoản dư nợ khoảng 195 … ngàn đô la Mỹ ngày 1/4/1997 thì nội dung tờ này ghi là : Chúng tôi gồm : Cty Hoàng Lê, và bà DPH- DKT đại diện Cty Gesey cùng đối chiếu lúc 14h15’ số dư nợ 195 … và 03 Container nợ treo … kết thúc lúc 14h30’ do bà DKT ký . ( tại sao bà H có mặt và nợ nếu cho là của bà ấy thì không để bà ấy ký mà “ hồn nhiên để bà T ký 1 chữ ký mà nếu so với một số giấy tờ bà T ký thì rõ ràng nó là 1 bản đối chiếu giả nhỉ ???? hơn thế trong vòng 15’ mà đối chiếu xong tất cả số liệu cho ra được con số gọi là “ dư nợ” thì quả là quá siêu đẳng. Mà kèm theo tờ này cũng chẳng phải là 1 danh sách thống kê Hàng - Tiền nào cả. Đồng thời theo 1 bút lục Toà án Sơ thẩm lần 1 yêu cầu A.18 cho thông tin chi tiết về những lần xuất nhập cảnh của Bị đơn. Trong công văn trả lời chi tiết của A.18 gửi thể hiện ngày 1/4/1997 bà H chưa nhập cảnh mà 3/4/1997 bà H mới nhập cảnh bằng hộ chiếu công vụ. ( Phải chăng )chỉ vì Phúc thẩm căn cứ vào có 1 thoả thuận mới ngày 1/4/1997 do ông DmitriSmirnov ký mà Cty Hoàng Lê đã phải làm vội 1 tờ gọi là “đối chiếu công nợ” để cho vào hồ sơ ??? . Rồi qua nhiều lần đối chiếu các số liệu không thống nhất, cuối cùng thì Thẩm phán đành phải nói “ Nguyên đơn về làm lại rồi đối chiếu “ Nguyên đơn, một doanh nghiệp sản xuất có tư cách Pháp nhân với cả trăm công nhân làm việc, một bộ máy kế toán đồ sộ thế nhưng ….: hôm nay 1 bản có số liệu kết khác, ngày mai một số liệu khác và thậm chí trong phiên Toà xét xử HĐXX hỏi trước sự chứng kiến của các nhà báo tham dự thì cũng …“để tôi nộp sau cho Toà “ . ( giả xử nếu phiên Toà ấy không bắt đầu từ 1h30’ chiều đến 7h tối , và nếu ngày hôm sau Ls Phan Trung Hoài không có vụ án khác ở nước ngoài phải tham dự và ngay hôm sau Toà xử tiếp thì sao nhỉ ? sẽ nộp số liệu nào để công khai mà đối chiếu đây ?????
+++ Khi bà H hỏi : ông nói bán hàng cho tôi vậy cho tôi xin Hoá đơn tài chính để tôi đối chiếu được không? Vì chắc chắn 03 liên Hoá đơn đưa ai thì đưa ông phải giữ lại 1 liên chứ .Nguyên đơn trả lời : Tôi chả việc gì đưa cho bà, bà không có quyền, tôi đưa cho uỷ thác rồi … “ (ủa vậy chứ Nguyên đơn đang đòi nợ ai vậy ? và Hợp đồng Uỷ thác thì ghi rõ “ bên B người uỷ thác tự thu tiền với khách hàng nước ngoài “ vậy nếu Cty Hoàng Lê và như ông Tuấn trả lời vậy trước HĐXX thì sang Uỷ thác mà đòi chứ sao đòi bà H nhỉ , chả nhẽ đưa Uỷ thác mà không giữ lại ??? trong khi đó 1 bản fax thư vớ vẩn cũng giữ lại ) .
Câu trả lời y như câu ông Tuấn trả lời với Chi Cục Thuế Thủ Đức khi bà H lên đây yêu cầu sao lục chứng cứ cho vụ án để tự bảo vệ mình . Cục Thuế Thủ Đức do ông Bá (đội kiểm tra Thuế 2 làm việc với Ls Ân và bà H thì trả lời bằng công văn là : ( công văn này có cả đoạn trích giải trình của ông Tuấn với Chi cục Thuế Thủ Đức ) +++ bôi xấu ông N bà H chiếm đoạt tài sản Cty Hoàng Lê và đồng khẳng định “ vì phải thi hành bản án 301/HSPT ngày 11/3/2005 phải di dời nhà xưởng nên không giữ lại giấy tờ quá 10 năm . đồng thời khẳng định các Hoá đơn tài chính trong vụ mua bán này ông trao nộp đủ cho Uỷ thác Cẩm Thành ????
( Ngoài lề )
+++ Quả là ông Nguyễn Anh Tuấn “ cao thủ” theo kiểu “ gái đĩ già mồm “ chứ chẳng vưà. ( xin lỗi bạn đọc ở đây) . Tuy nhiên, “ gái đĩ” ở một số nước trên thế giới cũng phải “đóng thuế bán trôn” mà. ( mà hình như nước mình cũng định cho thành " nghành nghề" thì phải .
- Ông Tuấn nộp cho Chi cục Thuế Thủ đức những báo cáo Thuế từ năm 1998 báo cáo Thuế 1999 . Còn biên bản kiểm tra Thuế của Tổng cục thuế năm 1996 và 9 tháng đầu năm 1997 trong đó có doanh thu nội địa hơn 2 tỷ ông ta dấu biến đi. đồng thời ông ta đưa cho Chi cục Thuế Thủ đức một số giấy tờ mà cho là của “ Bộ tư pháp gửi vào” trong đó có phán quyết của Toà án Nga nhập nhèm sửa chữa ( phán quyết 1 điều mà không cần ai yêu cầu nhưng Trọng tài Toà án Nga cũng “ nhiệt tình” mở phiên xét xử) đưa cho Chi Cục Thuế với giải trình bà H và ông N ( người đang yêu cầu chi cục thuế cho số liệu báo cáo Thuế ) là kẻ " lưà đảo chiếm dụng tài sản của Cty Hoàng Lê" Và ông Bá ( đội kiểm tra Thuế thủ đức ) chả biết chấm mút bao nhiêu đã ôm luôn giải trình của ông Tuấn vu khống Bị đơn và không cần xem xét lại gửi trả lời bà H và gửi cho Cục Thuế TP HCM.
( Chỉ có điều là sau khi bà H có một công văn trả lời của Bộ tư pháp về vụ việc này thì bà Đào ( nào đó ) ngoài Bộ tư pháp cuống lên vì sợ luôn gọi điện vào hỏi Thẩm phán “ bà H đã nộp giấy tờ gì chưa “ ??? ( vì sao tôi biết là “ gọi liên tục ư ?” vì Thẩm phán khi mời bà H lên đối chiếu và cho coi tờ “ Phán quyết” của Trọng tài kinh tế Toà án Nga bà thẩm phán đã bảo bà H là “ ngoài bộ tư pháp hỏi chị đã nộp giấy tờ ngoài đó trả lời chưa “ Không có dấu hiệu dối trá mắc chi phải sợ ??? chưa nói đến là bỗng dưng hồ sơ của Bộ tư pháp gửi vào Toà án Sơ thẩm TPHCM trong lúc Toà Sơ thẩm đã thụ lý sau Phúc thẩm tối cao và đã có Thẩm phán theo dõi vụ án thì…. “ hồn nhiên” lại được chuyển sang Toà án lao động và từ Toà lao động chuyển sang Toà 131 NKKN
- Mà điều kỳ lạ là một bộ hồ sơ theo thủ tục từ VN sang Nga thì công hàm viết tiếng Anh ???? ( hình như các cán bộ của Bộ tư pháp tuyền học ở Anh về ??? và không có ban tiếng Nga thì phải ????) ủa hay tiếng Anh là tiếng giao dịch quốc tế nhỉ ???? và hồ sơ Nga chuyển về VN qua thủ tục ngoại giao thì chả có dấu hiệu nào thể hiện. Hồ sơ lem nhem không niêm chì kẹp chỉ …. Khá khen thay cho cả một “đường dây “ làm giả giấy tờ và được ủng hộ nhiệt liệt rồi vu giá cho Bộ tư pháp bằng cái gọi là “ công văn Bộ Tư Pháp “ số 1589/BTP-HTQT . Có thể Bộ tư pháp có công văn này, nhưng kèm theo nó là hồ sơ trả về vì tống đạt không được bởi Cty Gesey không còn ở địa chỉ cũ . Nhưng thế thì “ bất lợi “ với Nguyên đơn quá. Lẽ đó mà phải có tổ chức làm giả 1 tờ phán quyết rồi rút ruột hồ sơ kèm theo công văn Bộ tư pháp đưa “ phán quyết của trọng tài Toà án kinh tế Matxcova vào hồ sơ .
- Bởi căn cứ vào các công văn của Bộ tư pháp chuyển sang Đại sứ quán Việt Nam tại Nga thì chả có công văn nào “ yêu cầu Toà án Nga mở phiên xét xử “ mà chỉ là nhờ Đại sứ quán Việt Nam thậm chí công hàm tiếng Anh từ Việt Nam sang Nga cũng là nhờ tống đạt bản án, nếu thấy không còn Cty đó ở địa chỉ đó thì dán ngay đó dùm “
- Điều lạ lùng hơn ở đây là giữa Việt Nam và Nga xưa nay không bao giờ có các công hàm bằng tiếng Anh gửi sang Nga . ( Chưa nói đến những tình tiết khác )
( nói câu chuyện vui, ngay tại cửa khẩu Nga, cô bạn tôi nói “ thích nói tiếng Anh khi vào Nga hở thì đưa hộ chiếu đây, d0ứng sang 1 bên … đứng đấy mà chờ, bao giờ làm thủ tục hết các khách thì bọn Nga xét đến cho dù đi hộ chiếu ngoại giao và lãnh sự đón ngay đó ) .
- Công hàm Nga trả lời có 45 trang hồ sơ hoàn lại … nhưng thực tế không hề có 45 trang này
- Cty Hoàng Lê trong 1 giải trình mới nhất còn cho rằng : Thoả thuận mua bán hàng XK được ký bởi ông DmitriSmirnov ngày 1/4/1997 là không đúng vì “ Nga không bao giờ có sự xoá như thế “ biết nói thế mà Cty này lại cố tình quên là : Trong tờ Phán Quyết mang tên Trọng tài Toà án kinh tế Matxcova “ nó” còn xoá đi viết đè bút lên một cái tên mà bất cứ người dân Nga nào cũng không thể viết sai, đánh sai đó là chữ CCCP . ( Chưa nói đến là 1 phán quyết của Toà án ) chứ không phải Cty mà lại tẩy xoá
+++ quả là Cty Hoàng Lê đại diện ông Nguyễn Anh Tuấn cao thủ thật chứ chẳng vưà.. Chẳng hạn như : ở Phúc thẩm tối cao khi Chủ tọa đưa Thoả thuận ngày 01/4/1997 ký với DmitriSmirnov ra ông ta công nhận chữ ký nhưng im lặng giải trình. Nhưng xuống Sơ thẩm lần 2 ông ta bỗng “ sang trí” ra hay là được cố vấn của các LS biện hộ cho ông là cần phải “ phủ” cái thoả thuận này . Lẽ đó mới nghĩ ra ‘08 bản “ ( trong khi thoả thuận này làm khỉ gì có dòng chữ “ làm thành 08 bản mỗi bên giữ 04 bản có giá trị như nhau ) để mà .. “ cho rằng tôi ký những 08 bản ” ??? Thoả thuận này chỉ có 01 điều khoản không thể “ phủ “được làm cơ sở nền tảng cho toàn bộ vụ án căn cứ vào đó mà xét xử đó là : điều 6 : Thoả thuận này được lập làm cơ sở cho hai bên ký kết các các Hợp đồng mua bán về sau, Nghĩa vụ và quyền lợi sẽ được các bên quy định cụ thể trong từ hợp đồng mua bán riêng” và điều 7 “ trường hợp phát sinh thay đổi phải được thông báo bằng văn bản và chỉ được thay đổi có sự chấp thuận bên kia bằng văn bản .
( Như vậy : Bản thân thoả thuận này đã không phải là gốc của khoản tiền 228.908,69 USD rồi. ( tôi sẽ “ phân tích” nó ở phần dưới)
Tuy nhiên những buổi đối chiếu suốt 2 năm qua . Nguyên đơn thực tế không thống kê và nộp số liệu chứng từ bản gốc để đối chiếu
về số liệu thực năm 1996 : mà sau này Nguyên đơn cũng như Ls cho rằng … “ Nợ” có từ đây mang sang ????
Các Hợp đồng mua bán hàng mì và các Hợp đồng khác giữa bà Bị đơn với Nguyên đơn giai đoạn này gồm :
- 01 bản Hợp đồng có ghi giá trị 01 Container mì
- 02 Bản Hợp đồng Nguyên đơn ký với một pháp nhân khác là Cty Thiên Minh ( cả 03 bản Hợp đồng này cơ bản đã thanh lý ) .
- 01 Hợp đồng Uỷ thác hàng xuất khẩu do Nguyên đơn tự ký với Cty XNK DV Cẩm Thành - Quảng Ngãi trị giá 102.000 USD . ( Giải trình phần này Nguyên đơn cho rằng : Bị đơn là cá nhân bà H yêu cầu Nguyên đơn bán mì thông qua Cty 02 Hợp đồng với Cty Thiên Minh ) ???
- 17 tờ phiếu xuất kho nội bộ trên phiếu ghi tên bà H ( nhưng không có ai ký nhận) . Và nếu có so sánh số liệu hang, tiền ghi trên những tờ phiếu xuất kho này với các bảng thống kê Hàng – thanh toán tiền do Cty Hoàng Lê “đẻ” ra thì cũng không có một số liệu nào trùng khớp trừ 01 con số trùng khớp thì nó lại nằm trong Hoá đơn tài chính Cty Hoàng Lê bán mì cho Cty Thiên Minh và đã thanh lý )
+ Ở những điều vưà nêu trên có mấy vấn đề thực tế như sau
- Kèm theo HỢP ĐỒNG MUA BÁN MÌ ĂN LIỀN mà Bị đơn ký mua 01Container hàng mẫu trị giá 10.240 USD ngày 8/4/1996 là Hợp đồng Uỷ thác XK của Cty Hoàng Lê ký với Cty XK Cẩm Thành trị giá 10.240 USD và 01 Tờ khai hàng hoá đã xác nhận thông quan ngày 10/4/1996 trị giá thực xuất 10.240 USD
Như vậy : về tranh chấp thì Hợp đồng ngày 08/4/19996 giữa Nguyên đơn ký với cá nhân bà H này không có tranh chấp . Và nếu có phát sinh tranh chấp thì giá trị tranh chấp của Hợp đồng này là 5120 USD ở Toà án kinh tế . ( như điều 5 Hợp đồng mua bán này quy định)
- 02 Hợp đồng mua bán mì ăn liền giữa Hoàng Lê ký với pháp nhân khác là Cty Thiên Minh . Hồ sơ vụ án do Nguyên đơn nộp chỉ thể hiện kèm theo là Hợp đồng Uỷ thác Nguyên đơn ký với Cẩm Thành trị giá 102.000 USD với giải trình “ bà H nhờ Cty Thiên Minh ký hợp đồng và chưa thanh toán ??? (Trong khi tại Phúc thẩm tối cao ngày 14/07/2008 Thẩm phán Chủ toạ là bà Trương Thị Minh Thơ hỏi Nguyên đơn : “giữa Thiên Minh và Hoàng Lê có thanh toán sòng phẳng trả hết tiền chưa”
- Nguyên đơn trả lời : Thanh toán xong hết rồi )
Căn cứ vào chứng từ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào những ý liến khi này khi khác trong lời giải trình mới trong bản giải trình ngày 14/01/2008 của Nguyên đơn, kiểu mập mờ và lươn lẹo trong chứng cứ chứng minh của Nguyên đơn như thế .
++++Bị đơn là bà H đã tìm đến Cty Thiên Minh . Tại đây, Cty Thiên Minh cung cấp cho bà H bản thanh lý Hợp đồng mua bán mì giữa Thiên Minh và Hoàng Lê được ký Giám đốc đại diện là ông Lê Kiên Thành – GĐ Cty Thiên Minh và ông Nguyễn Anh Tuấn GĐ – Cty Hoàng Lê ngày 30/8/1996 . Kèm theo bản Hợp đồng thanh lý này là : Hoá đơn tài chính Cty Hoàng Lê xuất bán cho Cty Thiên Minh (ồ thì ra khi mua bán họ cũng phải xuất hoá đơn ) và Hợp đồng uỷ thác XK . Nhưng Hợp đồng này do ông Lê Kiên Thành GĐ Cty Thiên Minh tự ký với Cty nhận uỷ thác Cẩm Thành nhờ xuất khẩu mì sang Nga cho Cty Gesey ++++ Toàn bộ chứng từ chứng minh 02 Hợp đồng mua bán 06 Container mì trị giá 67.392 USD . Với bộ hồ sơ về mua bán giữa hai pháp nhân này, bà H nộp trình Toà án cấp Sơ thẩm lần 2 .
Như vậy : 03 Hợp đồng mua bán mì như nêu trên thực tế không có giá trị pháp lý và không có tranh chấp trong vụ án này . Vậy nếu tranh chấp “ nó “ sẽ được tranh chấp ở đâu ? ở … Toà án kinh tế .
+++ Riêng Hợp đồng uỷ thác Nguyên đơn ký với Cty Cẩm Thành cũng có giá trị 102.000 USD với giống nội dung, số liệu tổng trị giá tiền giống hệt Hợp đồng uỷ thác Cty Thiên Minh trực tiếp với Cty Cẩm Thành (và đã thanh lý ) . Chỉ khác là thì kèm theo bản Hợp đồng này không có Hoá đơn tài chính, không có Tờ khai hàng hoá xuất khẩu của hải quan chứng thực đã có xuất hàng theo Hợp đồng này .
Tuy nhiên, Để giải trình cho lý do không có các chứng từ kèm theo bản hợp đồng Uỷ thác mà Nguyên đơn ký với Cẩm Thành, Nguyên đơn lại “ cho rằng “ : Bị đơn là bà H nhận hàng tại kho Cty Hoàng lê từ ngày 10/4/1996 đến tháng 2/1997 là 19.635.850 gói mì trị giá 1.256.694,4 USD ( tương đương 13.899.040.064 ĐVN), Bị đơn chở những gói mì này đi đâu, thậm chí vứt đi đâu, xuất sang Nga như thế nào, ai nhận trên giấy tờ thì Cty chúng tôi không quan tâm, không biết , chúng tôi chỉ biết căn cứ theo phiếu xuất kho ??? .
- Lý giải cho việc Nguyên đơn không xuất trình được Hợp đồng mua bán và các chứng từ hợp pháp theo Pháp luật như Hợp đồng mua bán đi kèm lô hàng này. Ls Phan Trung Hoài ngay tại phiên xét xử Sơ thẩm lần 2 ngày 10/12/2010 và 28/12/2010 trước Hội đồng xét xử và khá đông học trò của ông cũng như đại diện các báo pháp luật Ls Hoài cũng cho rằng : Thời gian này việc ký kết hợp đồng mua bán bằng điện thoại miệng là thường ??? sau đó không biết ông Hoài nghĩ sao đã nói tiếp “ thân chủ của tôi cũng có chút khuyết điểm là ký Hợp đồng mua bán với bà H qua điện thoại …. ????
( Ngoài lề ) : (Tôi rất hâm mộ ông LS Hoài, cô bạn tôi cũng là mộ hâm mộ chạy theo tất cả những sách ông ấy ) Nhưng chúng tôi thật không hiểu Ls đáng kính này vì sao trả lời thế ???? +++ căn cứ vào những kiến thức và các chức danh Ls Phan Trung Hoài thưà sự hiểu biết về một vấn đề đơn giản khi mua bán chứ đừng nói đến việc mua bán giữa 1 pháp nhân với cá nhân , Ls Hoài thưà hiểu rằng để xuất được hơn mười chin triệu gói mì ấy, thu hơn triệy đô la Mỹ phải cần đến cái gì để chứng minh và chứng cứ nào mới là quan trọng chứ đừng nói đến không biết, cần “ phủi” nó đi . Và hơn thế vì sao Ls Phan Trung Hoài có thể chứng minh được cô bạn bị đơn của tôi đã mua những 177 công 40’ mì ăn liền ??? vào năm 1996 hay ông Hoài đã dựa vào bức thư cô ấy tếu táo với ông bạn “ nối khố’ bây giờ đang kiện cô ấy là “ông nhớ không? Chúng ta đã đi đi được 177 Cont hàng kể từ ngày 7/4/1996 (đến ngày đi hàng cô ấy còn không nhớ để viết cho đúng ) thì làm sao có thể lấy một bức thư ra để “làm chứng cứ chứng minh” ???
Nói một câu chuyện vui ví dụ thế này : “ 1 bạn Ls nào đó ở đây viết thư rồi fax cho bạn mình và nói “ nhất định chúng tôi sẽ làm luật sư biện hộ ra Toà cho bạn, bạn có nhớ không? Chúng ta đã hợp tác với nhau 100 vụ kiện rồi ” Liệu là vào ngày ra Toà để tranh chấp thì thân chủ của bạn có thể cầm bức fax này đề nghị Toà án cho bạn tham gia tranh tụng không nhỉ ??? Hay các bạn sẽ phải có cái gọi là “ Hợp đồng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp với thân chủ “ và trình Toà thì mới được vác cặp và hiên ngang đứng trước Toà ? và liệu là vì trong bức thư Ls đã có câu viết chúng ta đã đi với nhau 100 vụ kiện rồi” thì Toà án sẽ căn cứ vào bức thư này cho Luật sư đứng trước Toà bảo vệ than chủ mà không cần Hợp đồng không ??? Hơn thế, Một doanh nghiệp tư nhân sản xuất bán hàng mì ăn liền , có nghĩa doanh nghiệp này để sản xuất ra thành phẩm 1 gói mì thì doanh nghiệp này không thể tự “đẻ” ra được bột mì, dầu ăn, gia vị để làm thành một gói mì . Như vậy, sẽ có đầu ra và đầu vào muốn đi mua những thứ cần thiết ấy liệu có không cần Hợp đồng không ? và cứ thế đến kho của nhà máy sản xuất Bột hay dầu ăn bảo với họ là “ông chỉ cần xuất cho tôi phiếu xuất kho thôi tôi đi đâu làm gì mặc xác tôi ???? .
Có lẽ nào : Cty Hoàng Lê không phải là một pháp nhân, không có con dấu riêng và là 1 tổ hợp sản xuất “ thủ công” ra một gói mì ăn liền và chỉ cần bán hàng bằng điện thoại và sẽ thu tiền khách hàng , ( có là tổ hợp cũng có sổ ký vào mỗi khi nhận hang và trả tiền mà ) và Cty Hoàng Lê sẽ “nộp thuế “ theo kiểu tổ hợp “ chứ không cần nộp thuế doanh thu ??? không cần báo cáo thuế chăng ???? – Xin dành những câu hỏi này cho các bạn Ls ở đây . Các bạn sẽ biện hộ thế nào trong khi chứng cứ trong hồ sơ vụ án là CHỨNG CỨ CHỨNG MINH cho các lời nói của Nguyên đơn, của Luật sư Hoài là :
- Biên bản kiển tra Thuế của Tổng cục Thuế Việt Nam ngày 11/7/1997 với thời gian kiểm tra Thuế là : năm 1996 và 9 tháng đầu năm 1997 xác định :
+++ Doanh thu nội địa có chịu thuế : 2.412.987.650 Đồng Việt Nam
Trong biên bản này không có thể hiện câu : Doanh thu xuất khẩu không chịu thuế . Như vậy cũng có nghĩa Tổng cục Thuế xác định Cty Hoàng Lê năm 1996 ( chưa nói đên việc T963ng cục Thuế ghi nhận biên bản này gồm cả 9 tháng đầu năm 1997 Cty này mới có số doanh thu nội địa là hơn 2 tỷ nhé )
Biên bản Thuế không thể hiện bán hàng để xuất khẩu mà chỉ thể hiện doanh thu nội địa miễn thuế . Và NẾU DOANH THU NỘI ĐỊA MIỄN THUẾ VẬY thì đến một sinh viên luật cũng có cũng hiểu Cty này không thể bán hàng giao tại kho một lượng mì có trị giá thành tiền là 13.899.040.064 Đồng Việt Nam mà không xuất nổi 1 tờ hoá đơn tài chính cho người nhận hàng . Và người này “ muốn chở đi đâu thì chở “ và với cái phiếu xuất kho nội bộ trong phạm vi nhà máy liệu người mua có ra khỏi cổng nhà máy với bảo vệ không nếu không đủ chứng từ hợp pháp ???. Còn nữa “ Cty Gesey là Ma và tôi không biết “ nếu có 1 tàu chở bột mì cập bến Cảng Sg , Cty Hoàng Lê có thể cầm mấy tờ phiếu xuất kho vào Cảng và bảo Hải quan Cảng hay là bảo chủ tàu là “ phiếu xuất kho này” trên phiếu xuất kho là tên người nhận VD là tên bà Thẩm phán Nguyễn Thị Vân chẳng hạn, rồi ông Tuấn chià phiếu xuất kho ra bảo cho tôi nhận lô bột mì đi …. được không nhỉ . Chủ tàu có cho không ? Hải quan cho không ????? mà làm việc với “ Gesey MA “ sao lại có được doanh thu XK năm 1998-1999 nhỉ ????
Với khai báo như vậy có phải là trốn thuế và được bao che chăng ??? còn nữa, Nguyên đơn khai ở Phúc thẩm tập mới nhất ngày 14/5/2011 : Bị đơn bà H nộp tại thủ quỹ Cty 833.659,42 USD mà không có bất cứ một tờ phiếu thu tiền nào thể hiện có trong hồ sơ vụ kiện.??? Trả chuyển khoản qua Vietcombank 180.000 USD mà người thực hiện chuyển số tiền 180.000 USD cho Cty Hoàng Lê là Cty Gesey . chứng cứ là phiếu báo có ghi nhận từ tháng 1/1997. Như vậy các bản Hợp đồng mua bán thực tế với Cty Gesey – Nga nói riêng năm 1996 chứng minh cho lô hàng trị giá hơn triệu đô la ấy đâu ? Liệu là một khoản tiền to đến gần triệu đô la Mỹ ( như Cty Hoàng Lê khai rằng nộp tại quỹ Cty ) mà cả người bán lẫn người mua cũng không cần phiếu thu tiền ??? không cần hợp đồng mua bán kinh tế ( thảo nào ở Toà kinh tế các Thẩm phán ngồi chơi cả ) tranh chấp chỉ xảy ra trong dân sự thôi nên các bác dân sự thật vất vả.
( Ngoài lề ) vậy có phải Cty Hoàng Lê lại lại dấu đi như dấu đi những chứng cứ và bản Hợp đồng đã thanh lý với Cty Thiên Minh không? Và “ thuở ấy” mình đã được sự ủng hộ của Thẩm phán Vân cấm xuất cảnh vợ chồng nhà BỊ ĐƠN KHÔNG ĐƯỢC XUẤT CẢNH. “ chúng nó “ còn lâu sang Nga mà tìm chứng cứ mà tự bảo vệ mình nên cứ bịa ra rồi lấy cái nọ chồng cái kia ai mà đọc . Lại được các Luật sư nổi tiếng bảo vệ cho nữa.Tha hồ hô mưa gọi gió theo kiểu “ gái đĩ già mồm “ . (xin lỗi ai đọc đoạn này có bất bình với tôi thì cứ lên tiếng, nhưng tôi cho Nguyên đơn là dạng là thế, ( tuy nhiên dạng gái này ở một số nước khác khi hành nghề “ làm đĩ” cũng phải nộp thuế) huống chi một Cty có pháp nhân con dấu đầy đủ Biên bản kiểm tra Thuế rành rành ra thế lại cứ dài miệng nỏ mồm mà “cho rằng “ … hết lần này sang lần khác lúc thì : khoản nợ xuất phát từ Thoả thuận mua bán hàng xuất khẩu ( mà đây là thoả thuận 1 số nguyên tắc,và phải có các Hợp đồng mua bán riêng mới có giá trị) lúc thì từ bức thư tay ( mà thư tay thì không hề có nói đến con số chốt nợ ) lúc thì họ vay 200.000 USD để hoá giá nhà họ ( mà giấy vay nợ không có ) lúc thì tại họ điện thoại bảo tôi vay tiền của ông bà Dương Hồng Vân năm 1998 với lãi xuất 1,5%trên số nợ quá hạn – hơp đồng vay công chứng đây này … (Trong khi về quan hệ ngoài đời người tên Dương Hồng Vân là ai mặt mũi thế nào ? cả đời vợ chồng nhà Bị đơn chưa hề thấy – hay tại vì cái họ Dương giống như họ chồng cô Bị đơn nên nhập nhằng thế Toà chả để ý Toà sẽ tin đấy, các luật sư nếu mình trình bày họ sẽ tin và cho là vậy đấy . Có phải vì khoản nợ cá nhân với nhà ông Vân kia có công chứng và ông Tuấn muốn giật nợ nên năm 2003 khởi kiện cô bạn ra không ?
- ĐIỂM LẠI : Nguyễn Anh Tuấn đại diện Cty Hoàng Lê chẳng đã bày trò thiếu tiền để mượn hợp đồng nhà của cô bạn rồi không trả và gài cô ấy vào một giấy “đối chiếu công nợ” đó ư ? vậy có phải vì vay tiền với ông Dương Hồng Vân không trả và tìm cớ giật nợ mới kiếm cô bạn thân người giúp mình mang nhãn sản phẩm “ mì nước cống” làm lên sự nghệp ra nước ngoài làm vật tế không? bởi vụ án càng dài thì ông Dương Hồng Vân nào đó càng chả có cơ hội mà lấy lại tiền trên những “ cơ sở “ kiểu như : bởi vì ông không thấy ư ? tôi nói với Toà và Ls của tôi rồi, vì vợ chồng nhà kia nó “ nợ” tôi nên tôi mới không có mà trả ông chứ thực tế thì 1 con số không có thật thì làm gì có chứng cứ . Trong suốt gần 10 năm mà đến 1 phép cộng cũng không ra . Lúc số này, lúc số nọ. Nếu làm ăn đàng hoàng và khoản nợ đúng là thật thì chả có một lý do gì mà trong gần 10 năm ( kể từ ngày khởi kiện và trong 12 năm vẫn không cộng ra con số 228.908,69 USD tiền xuất khẩu có nguồn gốc từ Xuất khẩu nào ) .
Cũng không thể phủ nhận được những báo cáo tài chính, báo cáo thuế mà ở đó không hề có xuất hiện con số nào được gọi là “ dư nợ” cả.
Lại nữa, địa chỉ 77 hẻm 63 đường số 8 khu phố 1 P Linh Xuân Thủ Đức . Thực tế là mảnh đất trại gà của nông nghiệp được Cty Hoàng Lê thuê lại của ông Giao . (để đánh lận trong vụ án ông Giao, đưa ông Giao hơn 700 triệu nghĩ là ông Giao sẽ bị “ tử hình” đây thì cũng “ hô lên là đưa cho ông Giao 1,4 tỷ để mua đất) . Mà bản án Phúc thẩm hình sự số 301/PTHS ngày 11/3-2005 nghe đâu là có tuyên phải trả lại miếng đất này để xây nhà cho công nhân sở NN . Vậy “ nó” cũng đang là địa chỉ để “đòi nợ” vợ chồng nhà Bị đơn thi hành bản án 301 HSPT ngày 11/3/2005 này cũng … khó nhỉ .
Tôi đã đưa lên đây sự thật tất cả những gì có trong hồ sơ vụ án này qua từng trang ở đây . Vì thế tôi sẽ không đưa lại nữa. Hồ sơ chỉ có thế . Các con số các chứng từ thì đều có tiếng nói đều có tên người trên đó . tất cả có thể làm giả được chỉ trừ Hoá đơn tài chính do Bộ tài chính phát hành những năm đó và những báo cáo kiểm tra Thuế là không giả được thôi. ( tôi cho là vậy) chứ nếu giả được có lẽ ông Tuấn cũng chẳng tha . Bởi vì làm sao bịa được các chữ ký người mua nữa .
Ở vụ án này, các con số cộng trừ lại và các chứng từ hợp pháp chứng minh ra số sẽ là tiếng nói duy nhất . Bà bạn tôi gõ cửa nhà một kế toán trưởng và “ xin em làm ơn kiểm tra dùm chị với “ Kết qủa cho ra từ những số liệu của Nguyên đơn cho thấy : Cộng bét nhè các bút lục kể cả phiếu xuất kho “đểu” vẫn dư ra khoảng 611 USD . Còn nếu tính đúng theo các chứng từ là Tờ khai hải quan thì … dư quá nhiều .
( Ngoài lề : )
Một Ls nói với cô bạn tôi rằng : sao mà dư được nhỉ ? có ai dư mà không lấy lại tiền không ? cô bạn tôi nói : thật ra tiền dư là phải vì luôn luôn các nhà sản xuất phải giữ một khoản tiền cọc … bao bì . Bao bì tiếng Nga, và bao bì thùng cũng tiếng Nga có thêm các số điện thoại và địa chỉ người bán hang tại Nga bằng tiếng Nga cho nên nếu người mua bỏ không mua thì chỗ bao bì đó vứt làm sao bán được ở đâu . Cho nên kiểu gì chả dư
Rồi cô kể 1 ví dụ gọi là ( phạt) : có một lần VN in sai chữ tiếng Nga (mì làm từ nước cốt heo) thì chữ heo đó dư thưà dấu gì đó thành ra “ mì làm từ nước cốt chất độc “ chỉ có mỗi cái dấu chữ thế là cả mấy lô có chữ đó đều bị phạt và đốt sạch . Mà như thế là người sản xuất in sai, so sánh lại bản gốc khi đặt hàng thì cứ vậy mà phạt lại chứ làm sao tính cho người mua được . Nhưng vì người bán luôn giữ một số tiền của người mua làm cọc bao bì nên nhiều nhà sản xuất cũng “ chuối” lắm .
Ở v ụ án này quan trọng để chứng minh việc bán hàng đó là Hoá đơn tài chính do Bộ tài chính phát hành hoặc loại giấy ghi rõ chữ “ Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho “ của Bô tài chính chứ không phải mớ phiếu xuất kho mà “ ai đẻ ra cũng được” . Nhưng cái vụ này nó chẳng có gì cả .
Có người từng nói với tôi : Ls bảo vệ Nguyên đơn vì làm từ thiện cho vụ án vì thấy … tội nghiệp Nguyên đơn … và vì nể nang ai đó nhờ giúp đỡ mà đứng ra bào chữa… cho Nguyên đơn chị hãy nói cô bạn chị đọc lại hồ sơ và phải cẩn thận …”
Xin trả lời các bạn ấy ở đây : Tôi có nói với cô bạn tôi y như vậy .. Cô ấy bảo là : Em không quan tâm đến các chi tiết, tiểu chi tiết cũng như những lời khai của nó ( Nguyên đơn) trong vụ án này nữa. Cái gì thì cũng quá rõ ràng rồi, lâp đi lập lại chỉ có vậy thôi . Với em: mở mắt ra, hít thở không khi trong lành ở phiá nam thành phố và sống 1 ngày vui vẻ hoan hỉ trong lòng là được rồi. Các con khoẻ mạnh, những người thân yêu khoẻ mạnh thế là có đủ phước báu của ơn trên rồi . Còn các Ls bào chữa cho nó em cũng chả ý kiến gì cả. Tự lương tâm họ biết họ đang làm gì và bảo vệ điều gì. Chả có ai từ thiện cho một sai trái để gọi làm phước đâu . Phật dạy vậy rồi họ tạo nghiệp thêm thôi kệ đi chị, ai cũng “ thầy cô” cả vấn đề sẽ dạy gì với sinh viên của mình qua vụ này thôi. Lẽ đó tuỳ Toà phán quyết em chả cần phải đọc lại nữa, 4 năm em không đi ra nước ngoài , đủ cho em đọc rồi. Càng đọc càng không chấp. Chí ít mỗi người ở lưá tuổi bọn em “ ngũ tri thiên mệnh” thì cũng chả còn gì để mà phàn nàn nữa. Không đáng để bận tâm . Cái bận tâm là con cái mình, người thân của mình khoẻ không . Không khoẻ thì lo đây. Con hư thì lo đấy . Chứ còn chả vấn đề gì cả. kệ đi chị .
Sau những lời này, tôi nghĩ tôi cũng không còn bức xúc thay cô ấy nữa. Và vụ án này có là thế nào thì sự thật vẫn là sự thật . Tiền đôi khi quan trọng với người này nhưng không quan trọng với người kia vì cơ bản “ 1 cơn nhức đầu hết 60 quan” và sau khi chui v ào 4 tấm dài và 2 tấm ngắn thì cũng chẳng mang được gì cả.