Bảo vệ người thứ 3 ngay tình

Chủ đề   RSS   
  • #265298 29/05/2013

    tohienduong

    Sơ sinh

    Quảng Nam, Việt Nam
    Tham gia:11/05/2013
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 330
    Cảm ơn: 7
    Được cảm ơn 0 lần


    Bảo vệ người thứ 3 ngay tình

            Tại khoản 1 điều 138 BLDS 2005 quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình:"trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch la động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ 3 ngay tình thì giao dịch với người thứ 3 vẫn có hiệu lực,trừ trường hợp quy định tại điều 257 của bộ luật này"

    Điều 257 :quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình "chủ sở hữu cos quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thong qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản;trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp,bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu'".Nếu như vậy tài sản bị chiếm hữu trong ý chí của chủ sở hữu thì không đòi lại được,ở đây chiếm hữu là cầm năm,quản lý.......ví dụ như ông b mượn ông a 1 chiếc xe đạp vậy ông b chiếm hữu tài sản của ông a trong ý chí của ông a,nếu như ông b bán xe đạp cho chị c thì đây là hợp đồng có đền bù.vậy ông a không được đòi lại xe đạp từ chị c hay sao????????????????????????

     
    20519 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #266336   02/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Chào bạn !

    Nhận xét của bạn về các quy định dân sự là rất sâu sắc, tuy nhiên ví dụ của bạn thì tôi thấy có chổ nhầm lẫn !

    ví dụ như ông b mượn ông a 1 chiếc xe đạp vậy ông b chiếm hữu tài sản của ông a trong ý chí của ông a,nếu như ông b bán xe đạp cho chị c thì đây là hợp đồng có đền bù.vậy ông a không được đòi lại xe đạp từ chị c hay sao????????????????????????

    Việc cho "mượn" thì chỉ chuyễn giao quyền sử dụng mà, không có chuyễn giao quyền chiếm hửu. Quyền chiếm hửu (ngoài ý muốn của ông a) chỉ  có khi ông b không chịu trả và bán xe đạp cho chi C. Vì vậy, mua bán chiếc xe là giao dịch bất hợp pháp (tài sản do phạm tội mà có), ông a có quyền đòi lại, chi C ngay tình (không biết) thì được miễn trách nhiệm hình sự.

     

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn phantantai2012 vì bài viết hữu ích
    QuyetQuyen945 (02/06/2013)
  • #266346   02/06/2013

    QuyetQuyen945
    QuyetQuyen945
    Top 50
    Male
    Lớp 11

    Quảng Trị, Việt Nam
    Tham gia:28/10/2010
    Tổng số bài viết (1229)
    Số điểm: 15298
    Cảm ơn: 371
    Được cảm ơn 490 lần


    Chào bạn Phantantai2012!

    Trong trường hợp này tôi không đồng ý với bạn về hướng giải quyết vấn đề.

    Tôi đồng tình với cách hiểu của bạn Tohienduong, trong trường hợp này ông A không có quyền đòi lại xe của mình từ C ( trừ trường hợp C tự nguyện trả lại) bởi lẻ:

    - B chiếm hữu + sử dụng xe của A là trong ý chí của A.(1)

    - B bán xe cho C - đây là hợp đồng có đền bù.(2).

    Điều 257 quy định: Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

    Có nghĩa là theo quy định này thì chủ sở hữu chỉ được đòi lại tài sản của mình trong các trường hợp:

    Người chiếm hữu ngay tình có được động sản thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản. => B bán xe cho C là hợp đồng có đền bù nên không thuộc trường hợp này (3).

    Trong trường hợp hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu chỉ có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất. Trường hợp trên B không làm mất xe => Không thuộc trường hợp này (4).

    Việc chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu, ở trên A cho B mượn xe nên việc B chiếm hữu xe là trong ý chí của A (5). Từ (1)(2)(3)(4)(5) ta có thể kết luận A không có quyền đòi lại xe từ C.

    Trân trọng!

    P/s: Bạn ToHienDuong lần sau nếu trích dẫn văn bản luật cho dù là đánh máy thì cũng nên trích dẫn chính xác, hạn chế lỗi đánh máy, bởi khi bạn trích dẫn văn bản luật và đặc biệt bạn đã để trong dấu ngoặc kép (" ...") thì  đòi hỏi phải có sự chính xác.

     

     

     

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn QuyetQuyen945 vì bài viết hữu ích
    tohienduong (15/06/2013)
  • #266370   03/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Chào bạn Quyetquyen945 !

    Ban viết :

    B chiếm hữu + sử dụng xe của A là trong ý chí của A :

    Tội chỉ đồng ý với bạn là B được A giao được sử dụng xe.;Còn việc B được A giao có quyền chiếm hửu xe thì tôi không đồng ý. 

    Không đồng ý vì tôi "cảm thấy" nếu chấp nhận cách hiểu này thì sẽ tạo sự bất ỗn cho xã hội vì không ai dám cho ai mượn gì cả!

    Tuy nhiên, nói chuyện với Quyetquyen945 mà "cảm thấy" thì không được rồi; Tôi sẽ cố tìm căn cứ pháp lý để lấy xe về cho A (hiện nay thì chưa có).

    Trân trọng !

     

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
  • #266406   03/06/2013

    QuyetQuyen945
    QuyetQuyen945
    Top 50
    Male
    Lớp 11

    Quảng Trị, Việt Nam
    Tham gia:28/10/2010
    Tổng số bài viết (1229)
    Số điểm: 15298
    Cảm ơn: 371
    Được cảm ơn 490 lần


    Quyền sở hữu = chiếm hữu + sử dụng + định đoạt. Khi A cho B mượn xe thì A đã chuyển giao quyền chiếm hữu + sử dụng cho B.

    Trân trọng!

     
    Báo quản trị |  
  • #266426   03/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Chào bạn Quyetquyen945 !

    Tôi thấy bạn rất rành về hình sự nên muốn trao đổi với bạn các vấn đề từ hình sự mà giải thích vấn đề dân sự trên trên.

    -Một người bị "lừa đảo" thì về ý chí họ tự nguyện giao tiền cho người chiếm đoạt. Nhưng ý chí đó là do nhầm lẫn, bị lừa dối.Ví dụ : A cho B vay tiền để làm ăn nhưng B lại cờ bạc, tiêu xài cá nhân và trả nợ vay khác nên có dấu hiệu chiếm đoạt vì sử dụng sai mục đích đã thỏa thuận.

    Nên B là người chiếm đoạt phải bị tội, nếu không thì họ đã không có lỗi.

    -Trường hợp bạn trao đổi ở trên, Tôi thấy có nhiều điểm tương tự :

    b mượn xe của a đi và phải nói lý do mượn làm gì, khi nào trả. Chắc chắn là b không nói là mượn đem đi bán (vì a sẽ không cho mượn). Như vậy là về ý chí a không hề đồng ý cho b bán xe của mình. Nói cách khác, B chiếm hửu xe của a ngoài ý chí của a .Và xe đó bị mất do bị lừa đảo.

    Hy vọng được trao đổi nhiều với bạn !

     

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
  • #266452   03/06/2013

    QuyetQuyen945
    QuyetQuyen945
    Top 50
    Male
    Lớp 11

    Quảng Trị, Việt Nam
    Tham gia:28/10/2010
    Tổng số bài viết (1229)
    Số điểm: 15298
    Cảm ơn: 371
    Được cảm ơn 490 lần


    phantantai2012 viết:

    Chào bạn Quyetquyen945 !

    Tôi thấy bạn rất rành về hình sự nên muốn trao đổi với bạn các vấn đề từ hình sự mà giải thích vấn đề dân sự trên trên.

    -Một người bị "lừa đảo" thì về ý chí họ tự nguyện giao tiền cho người chiếm đoạt. Nhưng ý chí đó là do nhầm lẫn, bị lừa dối.Ví dụ : A cho B vay tiền để làm ăn nhưng B lại cờ bạc, tiêu xài cá nhân và trả nợ vay khác nên có dấu hiệu chiếm đoạt vì sử dụng sai mục đích đã thỏa thuận.

    Nên B là người chiếm đoạt phải bị tội, nếu không thì họ đã không có lỗi.

    -Trường hợp bạn trao đổi ở trên, Tôi thấy có nhiều điểm tương tự :

    b mượn xe của a đi và phải nói lý do mượn làm gì, khi nào trả. Chắc chắn là b không nói là mượn đem đi bán (vì a sẽ không cho mượn). Như vậy là về ý chí a không hề đồng ý cho b bán xe của mình. Nói cách khác, B chiếm hửu xe của a ngoài ý chí của a .Và xe đó bị mất do bị lừa đảo.

    Hy vọng được trao đổi nhiều với bạn !

     

    Xin chào !
    Thực ra đem hình sự để giải quyết vấn đề này thì cũng có nhiều vấn đề hay lắm nhưng tôi thấy ví dụ của bạn không được hợp lý lắm. 

    Thực ra nếu khi hành vi có dấu hiệu của tội phạm và bị xử lý Hình sự thì việc trao trả lại tài sản cho chủ sở hữu phải tuân thủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

    Còn việc chúng ta đang trao đổi chỉ là vấn đề dân sự, chưa có dấu hiệu của hình sự nên áp dụng pháp luật Dân sự để giải quyết thôi.

    Thân!

     
    Báo quản trị |  
  • #266478   03/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Chào bạn Quyetquyen945 !

    Bạn vui lòng giải thích thêm một vấn đề mà tôi đã nêu ở trên :

    Trường hợp này, b mượn xe, không trả và đem bán thì có coi là tuân theo ý chí của a không? a có đồng ý cho b mượn không phải trả hay được bán đâu ?

    Việc b không trả xe cho a có được coi là trong trường hợp "bị mất" không ? Nếu bạn nói không thì vì sao ?

    Tôi cảm thấy nếu chúng ta hiểu luật như vậy, khi thực hiện là sẽ làm rối loạn tình cảm và trật tự xã hội quá !

    Có những vật rất quý (về mặt tinh thần) với người này, nhưng không có giá trị, hoặc giá trị thấp (về mặt tiền bạc) đối với nhiều người khác.

    Một cuốn sách luật hiếm của Thầy bạn tặng bạn chẳng hạn, là rất quý đối với bạn. Bạn cho một người mượn và họ đem bán cho người khác với giá rẽ. Người mua này cũng rất thích cuốn sách của bạn và theo luật họ được giử cuốn sach đó (vì ngay tình) hay sao ?

    Tôi nghĩ chúng ta đã hiểu lầm gì đó, chứ luật không thể được thông qua mà không bảo vệ quyền sở hửu người chủ hợp pháp như ông a.

    Một người có quyền sử dụng cách "mượn", rồi 'bán" nhằm chiếm đoạt thứ mà họ thích, dù chủ sở hửu không đồng ý thì xã hội sẽ ra sao ?

    Trân trọng !

     

     

     

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
  • #266479   03/06/2013

    QuyetQuyen945
    QuyetQuyen945
    Top 50
    Male
    Lớp 11

    Quảng Trị, Việt Nam
    Tham gia:28/10/2010
    Tổng số bài viết (1229)
    Số điểm: 15298
    Cảm ơn: 371
    Được cảm ơn 490 lần


    Chào bạn!

    Tôi xin phép trích dẫn lại điều luật xuống đây thêm 1 lần nữa để phân tích cho bạn thấy, bạn nên để ý những dòng chữ được tôi in đậm và bôi đỏ.

    "Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu."

    Trở lại ví dụ của bạn thì tôi đồng ý với bạn là B đem xe của A đi bán là không tuân theo ý chí của A nhưng đây là việc B định đoạt, còn điều luật quy định là bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu,ở ví dụ trên thì tôi nhắc lại B chiếm hữu chiếc xe của A là hoàn toàn trong ý chí của A. Tôi nghĩ bạn đã nhầm lẫn giữa các khái niệm chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và sở hữu. Đến đây tôi hi vọng là bạn sẽ hiểu đúng quy định trên, tôi sẽ không phải giải thích nhiều thêm.

    Trân trọng!

     
    Báo quản trị |  
  • #266487   03/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Cám ơn bạn !

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
  • #266540   03/06/2013

    anhdv352
    anhdv352
    Top 25
    Female
    Lớp 12

    Quảng Ninh, Việt Nam
    Tham gia:18/12/2010
    Tổng số bài viết (2388)
    Số điểm: 23782
    Cảm ơn: 826
    Được cảm ơn 1354 lần
    Moderator

    Chào mọi người. Theo mình thì cách hiểu của QQ và phantantai đều có cái lý của mỗi người và cái lý này xuất phát từ sự quy định không rõ ràng của pháp luật . 

    Mình có thể tóm lược chút ít về ý kiến của 2 người như sau (đối với ví dụ mà chủ topic nêu - động sản không cần đăng ký quyền sở hữu)

    QQ: Trong trường hợp vật rời khỏi chủ theo ý chí của chủ sở hữu (cho mượn, cho thuê...) mà người thứ ba chiếm hữu tài sản ngay tình thông qua hợp đồng có bồi thường thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản. Nhưng Chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp (ở đây là người thứ 2 đã bán tài sản đó) bồi thường thiệt hại về tài sản cho mình.

    Đây là căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự dựa trên căn cứ pháp lý và thực tiễn áp dụng luật 

    Trước đây theo quy định của BLDS 1995 thì cho phép người chủ sở hữu đòi lại tài sản trong mọi trường hợp kể cả trường hợp nêu trên. Nhưng đến BLDS 2005 thì quy định này đã thay đổi, giới hạn trong những trường hợp nhất định.

    Phantantai: Bạn phân tích dựa trên quy định của luật hình sự rằng: Nếu người B đó mượn xe rồi mang bán là phạm tội hình sự thì người thứ 3 chiếm hữu ngay tình phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu (vì sử dụng, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có).

    Ở đây có thể thấy sự "vênh" nhau giữa BLDS và BLHS. Nếu hành vi của người B đó đủ yếu tố cấu thành tội phạm (giá trị chiếc xe từ 2 triệu trở lên hoặc 4 triệu trở lên tùy trường hợp hành vi phạm tội cấu thành tội nào) thì C phải có trách nhiệm trả lại tài sản cho A và B bồi thường cho C. Nhưng Nếu hành vi của B chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì đây là quan hệ dân sự, C không phải trả lại tài sản cho A và B bồi thường cho A.

    Nếu vấn đề là hình sự thì thực tế áp dụng, giải quyết lại khác so với dân sự. Theo bản thân mình nghĩ đây là thiếu sót của luật.

    Chào Phantantai! Nếu bài QQ phân tích mà bạn vẫn không thấy hợp lý thì bạn có thể đọc tham khảo bài viết này nhé (đây là bài viết trong hội thảo chuyên đề luật dân sự do bộ môn luật dân sự trường ĐH Luật HN tổ chức):

    Dưới đây là đường link đăng tải và nội dung bài viết:

    http://luatminhkhue.vn/dan-su-1/quy-dinh-khoi-kien-doi-tai-san-theo-phap-luat-viet-nam-va-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.aspx

    Quy định khởi kiện đòi tài sản theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới

     

    Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền từ tay đế quốc, phong kiến, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cần phải xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị đối phó với ngoại xâm, vì thế những năm 1945 đến 1959 Nhà nước ta chưa tập trung vào xây dựng hệ thống pháp luật mới.

    Cho nên, trong lĩnh vực dân sự áp dụng các qui định trong các Bộ luật dân sự của chế độ cũ để giải quyết các tranh chấp trong xã hội mới nhưng phải tuân theo nguyên tắc của Sắc lệnh số 97/SL về sửa đổi một số qui lệ và chế định trong dân luật. Điều 1 qui định: ” Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân “.

    Thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế của Việt Nam lạc hậu và gồm nhiều thành phần kinh tế, muốn xóa bỏ các hình thức sở hữu phi XHCN thì cần phải có thời gian để cải tạo quan hệ sản xuất phong kiến, xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, vì vậy Nhà nước ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế ba năm và chuẩn bị điều kiện cho việc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, nhằm đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, dần dần đưa họ vào làm ăn tập thể, phát triển kinh tế theo con đường của CNXH. Để tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong các thành phần kinh tế khác nhau an tâm lao động sản xuất, Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu của người lao động riêng lẻ và quyền sở hữu của các nhà tư bản đối với các tư liệu sản xuất họ đang được phép sản xuất kinh doanh. Điều 11 Hiến pháp 1959 quy định :

    “ ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ qua độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước, của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc”.

    Như vậy pháp luật của nhà nước ta ghi nhận và bảo vệ quyển sở hữu tài sản của các chủ thể. Nếu quyền sở hữu bị xâm phạm, thì cho phép chủ sở hữu khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi cho mình. Toà án sẽ căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng để giải quyết tranh chấp về sở hữu.

    Từ những năm 1960 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ chính của nhân dân miền Bắc là tập trung sức người, sức của để chi viện cho đồng bào miền Nam, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì vậy trong thời gian này, các giao lưu dân sự để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân như mua bán lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm cần thiết khác, Nhà nước phân phối theo chỉ tiêu. Thời kỳ này các quan hệ dân sự chủ yếu mang tính hành chính, cho nên tranh chấp dân sự hầu như không xảy ra. Tuy nhiên, trong giao lưu dân sự có các giao dịch như mua bán nhà ở, đất đai, cho vay thóc gạo…Nếu có tranh chấp về những hợp đồng này thì việc giải quyết bằng biện pháp hoà giải ở hợp tác xã. Đối với những tranh chấp dân sự không hoà giải được thì giải quyết tại Toà án. Để thống nhất đường lối giải quyết các tranh chấp về dân sự, TANDTC tổng kết kinh nghiệm xét xử và ban hành văn bản hướng dẫn TAND các cấp về đường lối xét xử.

    Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối phát triển kinh tế của nước ta theo hướng xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế của nước ta phát triển dựa trên các quan hệ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Nhà nước coi hình thức sở hữu tư nhân là cần thiết trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Sau năm năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI (1986), công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Để tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới đó, Đại hội VII (1991) của Đảng đề ra định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn mới và tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội đã đề ra hướng sửa đổi Hiến pháp 1980 và tăng cường sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế, văn hoá, hình sự, dân sự, hành chính…

    Trong lĩnh vực dân sự, nhà nước ban hành hệ thống các pháp lệnh: Pháp lệnh về Quyền sở hữu công nghiệp 1989, Pháp lệnh về Thừa kế 1990, Pháp lệnh về Nhà ở 1991, Phấp lệnh về Hợp đồng dân sự 1991, Pháp lệnh về Quyền tác giả 1994. Mục đích của việc xây dựng hệ thống pháp lệnh về dân sự nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng Bộ luật dân sự 1995. Vì thế khi xây dựng BLDS, các pháp lệnh trên đã đã được xây dựng thành các phần cơ bản của Bộ luật dân sự 1995.

    Như vậy trước Bộ luật dân sự 1995, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp qui qui định về quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu của công dân, các tổ chức được qui định trong Hiến pháp và rải rác trong các văn bản pháp luật khác. Vì các qui định về quyền sở hữu chưa được xây dựng thành một chế định pháp luật trong hệ thống pháp luật dân sự, cho nên việc giải quyết các tranh chấp về tài sản được áp dụng các nguyên tắc chung của pháp luật luật dân sự đó là Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân theo Điều 27 Hiến pháp 1980 và Điều 58 Hiến pháp 1992.

    Lần đầu tiên chế định sở hữu được qui định trong Bộ luật dân sự 1995 tại Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu và Chương VI q ui định về bảo vệ quyền sở hữu. Điều 284 BLDS qui định:

    “ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp qui định tại khoản 1, Điều 255 của Bộ luật này”.

    Theo tinh thần của điều 284, thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp sau đây:

    -Thứ nhất, chủ sở hữu không chuyển tài sản của mình cho bất cứ người thứ hai nào, mà người đó đang chiếm giữ tài sản của chủ sở hữu mà không trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Trường hợp này người đang chiếm hữu tài sản có thể thực hiện hành vi bất hợp pháp như trộm cắp, cướp giật…Hoặc hành vi chiếm hữu ban đầu là có căn cứ như thông qua hợp đồng, hoặc nhặt được tài sản đánh rơi, bỏ quên…nhưng không chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu, do đó hành vi thực tế chiếm hữu tài sản là không có căn cứ (bất hợp pháp).

    - Thứ hai, chủ sở hữu chuyển tài sản cho người khác thông qua giao dịch như cho mượn, gửi giữ…người chiếm hữu hợp pháp không chuyển cho người thứ ba nhưng người thứ ba thực tế đang chiếm hữu vật. Trường hợp này người chiếm hữu hợp pháp có quyền kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không căn cứ để bảo vệ quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của mình.

    -Thứ ba, chủ sở hưũ chuyền tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp chuyển tài sản cho người thứ ba không được sự đồng ý của chủ sở hữu. Trường hợp này, người thứ ba có thể ngay tình hoặc không ngay tình đều phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

    Như vậy, căn cứ pháp lý để chủ sở hữu đòi lại tài sản trong các trường hợp hợp trên là chủ sở hữu không chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác, thì trong mọi trường hợp người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đều phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Căn cứ thực tế để chủ sở hữu đòi lại tài sản là người đang chiếm hữu tài sản làm cho chủ sở hữu không khai thác, sử dụng được tài sản của mình. Vì vậy, cần cho phép chủ sở hữu tự bảo vệ tài sản của mình hoặc yêu cầu toà án giải quyết.

    Bộ luật dân sự 1995, được xây dựng vào thời kỳ đất nước ta đang bắt đầu đổi mới, chúng ta đang chuẩn bị xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN, vì vậy trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân chưa cao, cho nên pháp luật cần phải bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản để tránh những trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như như người mượn, thuê tài sản bán cho người thứ ba…sẽ gây thiệt hại cho chủ sở hữu. Vì thế trong tất cả các trường hợp chủ sở hữu đều có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ ngay tình hoặc không ngay tình.

    Sau gần 20 năm đổi mới, nhà nước ta đã xây đựng thành công cơ chế thị trường định hướng XHCN, hệ thống pháp luật được xây dưng tương đối đầy đủ theo yêu cầu của việc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì thế, hệ thống pháp luật cần phải phù hợp với pháp luật của các nước, cho nên, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi bổ sung nhiều luật và bộ luật, trong đó có Bộ luật dân sự 2005.

    Về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu, theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2005, Nhà nước ta không những bảo vệ chủ sở hữu mà còn bảo vệ người thứ ba ngay tình.

    Điều 256 Quyền đòi lại tài sản

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này.

    Điều-257- Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

    Điều- 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

    Từ Điều 284 BLDS 1995, Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung hai điều mới là Điều 257 và 258. Đây là những hạn chế quyền đòi tài sản có điều kiện của chủ sở hữu đối với người ngay tình.

    Nội dung Điều 257 qui định về đòi lại tài sản không đăng ký quyền sở hữu. Điều luật này có hai vấn đề chính: Thứ nhất, nếu vật rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí, người thư ba ngay tình thông qua hợp đồng không đền bù thì phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Khi chủ sở hữu chuyển giao cho người chiếm hữu hợp pháp, người chiếm hữu đó cho tặng người thứ ba, thì người thứ ba phải trả lại tài sản. Theo nguyên tắc, chủ sở hữu đẫ chuyển giao cho người chiếm hữu bằng một giao dịch, cho nên nguời muợn, thuê phải chịu trách nhiệm theo hợp đồng với chủ sở hữu khi chuyển dịch tài sản cho người thứ ba. Tuy nhiên trường hợp này, người thứ ba có tài sản thông qua giao dịch không đền bù, vì thế nếu phải trả lại cho chủ sở hữu thì cũng không bị thiệt hại về tài sản, cho nên pháp luật cho phép chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.

    Ngược lại, nếu người thứ ba có tài sản thông qua giao địch có đền bù thì không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và chủ sở hữu có quyền kiện đòi người chiếm hữu bồi thường thiệt hại. Qui định này dựa trên các căn cứ pháp lý và thực tiễn sau :

    Về mặt pháp lý, khi chủ sở hữu chuyển dịch tài sản cho người thứ hai, thì giữa chủ sở hữu và người thứ hai có một giao dich, cho nên chủ sở hữu cần phải đề phòng những trường hợp người được chuyển giao tài sản không trả lại tài sản, do đó phải áp dụng các biện pháp bảo đảm mà pháp luật cho phép nhằm khống chế hành vi vi phạm của người được chuyển giao tài sản.

    Xét về mặt thực tiễn, người thứ ba có nhu cầu sử dụng tài sản, cho nên họ đã mua hoăc đổi tài sản để có tài sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc nhu cầu kinh doanh. Khi tham gia giao dịch họ không biết tài sản sản đó là của người thứ ba, cho nên hành vi của họ là ngay tình. Vì thế pháp luật cần phải bảo vệ lợi ích của người ngay tình, cho phép người thứ ba xác lập quyền sở hữu với tài sản đó. Mặt khác pháp luật cũng bảo vệ quyền của ch��� sở hữu, cho phép chủ sở hữu yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp bồi thường giá trị tài sản.

    Thứ hai là vật rời khỏi chủ sở hữu ngoài ý chí (không chuyển cho vật người khác) thì người chiếm hữu vật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Nội dung này giống với Điều 284 BLDS 1995.

    Nội dung Điều 258 BLDS gôm hai vấn đè cơ bản là: thứ nhất, chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu khi chuyển giao cho người khác cần phải sang tên tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì thế nếu người chủ sở hữu không chuyển quyền sở hữu, thì người ngay tình không thể có quyền sở hữu đối với tài sản.

    Thứ hai, nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu được chuyển giao cho người khác thông qua việc bán đấu giá hoặc giao dịch với người thưa ba mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu và sau đó bản án hoặc quyết định đó bị huỷ, thì người mua có quyền sở hữu đối với tài sản. Chủ sở hữu kiện người gây thiệt hại cho mình phải bồi thường giá trị tài sản. Trường hợp này, người mua hoàn toàn không có lỗi trong việc mua bán. Đây là lỗi của Toà án hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc công nhận quyền sở hữu cho chủ sở hữu vì thế, Toà án hoặc cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm dân sự theo Điều 619 hoặc Điều 620 BLDS.

    Điều 257 và 258 BLDS 2005 đã bảo vệ quyền của chủ sở hữu và lợi ích người chiếm hữu ngay tình. Mặc khác, qui trách nhiệm dân sự cho cơ quan nhà nước và Toà án nếu cán bộ công chức hoặc Thẩm phán do trình độ chuyên môn yếu hoặc do hành vi cố ý công nhận quyền sở hữu cho cá nhân, tổ chức trái pháp luật.

    Trong cuộc sống, cơ sở để con người tồn tại và xã hội phát triển là tài sản, vì thế pháp luật cần phải bảo hộ quyền sở hữu tài sản cho cá nhân và tổ chức.Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác nhau thì phuơng thức và nội dung bảo hộ khác nhau.

    Bộ luật dân sự của Liên bang Nga 1994, Chương 20 qui định bảo vệ quyền sở hữu và các quyền tài sản khác.

    Điều 301 qui định về yêu cầu đòi tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình. Theo nội dung điều luật này, chủ sở hữu có quyền đòi tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Đây là qui định mang tính nguyên tắc bảo hộ quyền của chủ sở hữu khi người khác chiếm giữ tài sản của mình một cách bất hợp pháp không ngay tình.

    Điều 302 qui định về yêu cầu đòi tài sản từ người chiếm hữu không căn cứ nhưng ngay tình.

    Khoản 1 qui định là chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp tài sản bị chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu chuyển cho đã đánh rơi hoặc bị mất trộm hoặc người khác chiếm hữu bằng các phương thức khác trái với ý chí của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.

    Qui này tương tư như điều 257 BLDS Viêt Nam 2005 trong các trường hợp vật rời khỏi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí thì chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu đòi lại tài sản.

    Khoản 2 Điều 302 qui định người chiếm hữu ngay tình thông qua giao dịch không đền bù có tài sản thì phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản. Như vậy có thể hiểu ngược lại là người ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù thì không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

    Khoản 3 qui định, đối với tiền và giấy tờ có giá người cầm giữ không được yêu cầu nguời chiêm hữu ngay tình trả lại.

    Qua nội dung của hai điều luật trên cho thấy những điểm tương đồng và khác biêt giữa hai bộ luật dân sư của Việt Nam và Liên bang Nga như sau.

    Về nguyên tắc luật bảo vệ quyền của người chủ sở hữu khi vật bị người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình và bảo vệ lợi ích của người ngay tình có tài sản thông qua giao dịch có đền bù thì được quyền sở hữu đối với tài sản.

    Điểm khác nhau giữa hai bộ luật này là: Bộ luật dân sự Liên Bang Nga không phân biệt việc đòi lại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Vì vậy theo tinh thần của Điều 302 BLDS Liên bang Nga, thì người ngay tình thông qua giao dịch có đền bù, không phải trả lại tài sản trong tất cả các trường hợp. Qui định như vậy là phù hợp với thực tế, vì người ngay tình không có lỗi trong việc chiếm hữu tài sản, cho nên cần phải bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà việc chuyển giao có giấy tờ do cơ quan nhà nước cấp đúng thẩm quyền thì người ngay tình cũng cần được bảo hộ.

    Ngoài ra, khoản 3 Điều 302 BLDS Liên bang Nga qui định về chiếm hữu ngay tình đối với tiền hoặc giấy tờ có giá thì người ngay tình không phải lại cho người có các giấy tờ đó và không phân biệt về nguyên nhân, nguồn gốc chiếm hữu ngay tình. Đây là một qui định riêng đối với tài sản là tiền và giấy tờ có giá, trên thực tế người chiếm hữu ngay tình không thể biết được nguồn gốc hợp pháp của tiền và giấy tờ có giá, cho nên để đảm bảo cho các giao lưu dân sự phát triển ổn định, pháp luật công nhận quyền sở hữu của người ngay tình.

    Trong Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp quyền sở hữu được qui đinh tại Quyển thứ hai, gồm bốn Thiên. Tuy nhiên, trong Quyền hai không qui định về bảo vệ quyền sở hữu. Phương thức bảo vệ quyền sở hữu được qui định tại Thiên thứ hai mươi- Thời hiệu và chiếm hữu.

    Điều 2229 qui định để hưởng thời hiệu chiếm hữu phải liên tục không bị gián đoạn, phải yên ổn, công khai, minh bạch và được thực hiện bởi danh nghĩa là chủ sở hữu.

    Điều 2229 không qui định về chiếm hữu ngay tình, tuy nhiên người chiếm hữu phải chiếm hữu bởi danh nghĩa chủ sở hữu, trên thực tế được coi như chủ sở hữu. Qui định này giống như việc chiếm hữu ngay tình trong luật dân sự Việt Nam.

    Điều 2265 qui định người ngay tình xác lập quyền sở hữu đối với bất động sản đã mua là 10 năm nếu người chủ sở cư trú trong địa phân quản hạt có bất động sản, 25 năm nếu chủ sở hữu cư trú ngoài quản hạt. Như vậy, nếu một người mua bán bất động sản ngay tình thì được xác lập quyền sở hữu đối với vật mua, cho nên chủ sở hữu không đòi lại vật được. Ngược lại, người mua chưa đủ thời hạn xác lập quyền sở hữu phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Điều luật cũng không qui định việc mua bán theo phương thức nào (đấu giá..), bỏi vì đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu đặc biệt. Thông thường thời hiệu khởi kiện đối với tài sản hoặc quyền nhân thân đều 30 năm, tuy nhiên trường hợp mua bán ngay tình bất động sản là 10 năm, thì xác lập quyền sở hữu. Qui định này hợp lý hơn so với Điều 258 BLDS Việt Nam.

    Điều 2279 qui định người đánh mất hoặc đã bị lấy trộm vật thì có thể đòi lại từ người đang giữ trong thời hạn 3 năm kể từ ngày mất vật, người giữ vật có thể kiện đòi người đã chuyển nhượng vật cho mình. Trường hợp này người đang thực tế giữ vật là ngay tình, cho nên theo thời hiều xác lập quyền sở hữu trong trường hợp đặc biệt này là 3 năm. Do vậy trong thời hạn 3 năm kể từ ngày mất vật chủ sở hữu có quyền đòi lại vật từ người chiếm hữu ngay tình và người ngay tình có quyền đòi tiền mua từ người bán cho mình.

    Điều 2280 qui định, người đang giữ vật của người khác bị mất mà đã mua vật đó ở chợ, hội chợ, bán đấu giá, thì chủ sở hữu chỉ có quyền lấy lại vật bằng cách trả cho người giữ vật số tiền đã mua. Ngoài ra, điều luật này còn qui định, người cho thuê muốn đòi lại động sản cho thuê đã bị chuyển dich, muốn đòi lại vật thì phải trả cho người có vật số tiền mua vật đó.

    Theo qui định của Điều 2280 nếu người ngay tình mua thông qua bán đấu giá, tại hội chợ chưa được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu chỉ có thể lấy lại tài sản bằng phương thức mua lại tài sản đó. Qui định này phù hợp với thực tế, bởi lẽ người mua qua đấu giá, hoặc trong hội chợ thì không buộc phải biết nguồn gốc tài sản có hợp pháp hay không, vì đó là cuộc mua bán công khai nơi công cộng mà ai cũng có thể mua và bán, vì thế để đảm bảo cho các giao lưu dân sự thông thoáng, ổn định, thì cần phải bảo vệ người mua ngay tình.

    Bảo vệ quyền sở hữu là trách nhiệm của các nhà nước đối với công dân và các tổ chức, tuy nhiên mỗi quốc gia có phương thức bảo vệ riêng. Mỗi phương thức đó đều tồn tại điểm manh và yếu và nếu kết hợp được các phương thức trên thì quyền sở hữu sẽ được bảo vệ tốt nhát.

    ——————————————————————

    CHUYÊN ĐỀ CHO HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG DO BỘ MÔN LUẬT DÂN SỰ – KHOA LUẬT DÂN SỰ – ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TỔ CHỨC VÀO NGÀY 11/12/2007

    CÁC BÀI VIẾT CÓ LIÊN QUAN:

    1. TS. Trn Th Hu. Quyn s hu và quyn năng ca ch s hu.

    2. ThS. Vương Thanh Thúy. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

    3. TS. Nguyễn Minh Tuấn. Qui định về kiện đòi lại tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam và một số nước trên thế giới.

    4. TS . Phùng Trung Tập. Kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình.

    5. ThS. Nguyễn Như Quỳnh. Kiện đòi lại tài sản làđộng sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình.

    6. TS. Nguyễn Văn Cường. Một số vấn đề thực tiễn trong việc kiện đòi nhà, đất do người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật tại Tòa án nhân dân.

    7. ThS. Vũ Thị Hồng Yến. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.

    8. ThS. Nguyễn Thị Tuyết. Bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự – những ưu điểm và hạn chế so với các phương thức khác.

    9. ThS. Vũ Thị Hải Yến. Tự bảo vệ quyền sở hữu – Nhưng ưu điểm và hạn chế so với các biện pháp khác

    10. ThS. Trần Kim Chi. Thực trạng về biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu.

    11. ThS. Bùi Thị Huyền. Một số vấn đề về thủ tục tố tụng dân sự trong bảo vệ quyền sở hữu tài sản tại Tòa án nhân dân.

    TS. NGUYỄN MINH TUẤN – KHOA LUẬT DÂN SỰ ĐHL HÀ NỘI

    (MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

     

    Cập nhật bởi anhdv352 ngày 03/06/2013 03:58:51 CH

    Đường chông gai chờ ngày mai ta bước tiếp!

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn anhdv352 vì bài viết hữu ích
    tohienduong (15/06/2013) HPUer (22/10/2014)
  • #266664   04/06/2013

    phantantai2012
    phantantai2012
    Top 500
    Male
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/05/2013
    Tổng số bài viết (179)
    Số điểm: 1177
    Cảm ơn: 108
    Được cảm ơn 110 lần


    Chào bạn anhdv352 !

    bạn viết :

    Theo mình thì cách hiểu của QQ và phantantai đều có cái lý của mỗi người và cái lý này xuất phát từ sự quy định không rõ ràng của pháp luật .

    Bạn viết như vậy khiến tôi có chút hy vọng là mình đúng ! Tuy nhiên đọc hết bài viết của bạn thì tôi không thấy mình đúng chổ nào cả !

    Tôi thực sự cám ơn bạn và bạn QuyetQuyen vì qua trao đổi tôi đã hiểu rỏ hơn nhiều vấn đề.

    Trân trọng !

    HỌC , HỌC NỮA , HỌC MÃI, HỘC .......MÁU !

     
    Báo quản trị |  
  • #266876   04/06/2013

    minhthao1980
    minhthao1980

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/05/2013
    Tổng số bài viết (101)
    Số điểm: 761
    Cảm ơn: 47
    Được cảm ơn 59 lần


    Chào bạn anhdv352 !

    Theo ví dụ trên, nếu ông a gởi đơn tố cáo ông b đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chiếc xe đạp của ông (có kèm theo hóa đơn vừa mới mua chiếc xe vời giá 4.800.000 đồng) thì công an có thụ lý vụ án không ? 

    Nếu công an thụ lý vụ kiện và khởi tố, chiếc xe trở thành tang vật thì có áp dụng quy định về dân sự như bạn nói hay không ?

     

    Cập nhật bởi minhthao1980 ngày 05/06/2013 07:04:17 SA
     
    Báo quản trị |  
  • #267093   05/06/2013

    anhdv352
    anhdv352
    Top 25
    Female
    Lớp 12

    Quảng Ninh, Việt Nam
    Tham gia:18/12/2010
    Tổng số bài viết (2388)
    Số điểm: 23782
    Cảm ơn: 826
    Được cảm ơn 1354 lần
    Moderator

    minhthao1980 viết:

    Chào bạn anhdv352 !

    Theo ví dụ trên, nếu ông a gởi đơn tố cáo ông b đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chiếc xe đạp của ông (có kèm theo hóa đơn vừa mới mua chiếc xe vời giá 4.800.000 đồng) thì công an có thụ lý vụ án không ? 

    Nếu công an thụ lý vụ kiện và khởi tố, chiếc xe trở thành tang vật thì có áp dụng quy định về dân sự như bạn nói hay không ?

     

    Chào bạn! 

    Việc giá trị chiếc xe thời điểm mua và giá trị chiếc xe tại thời điểm hiện tại phải được cơ quan định giá định giá mới có căn cứ khởi tố vụ án.

    Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì giá trị tài sản chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên thì có thể khởi tố vụ án. Nhưng đối với tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản thì giá trị tài sản chiếm đoạt phải từ 4 triệu đồng trở lên.

    Khi A làm đơn tố cáo B về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì cơ quan công an phải vào sổ thụ lý, tiếp nhận đơn tố cáo tội phạm để điều tra. Nếu đủ dấu hiệu khởi tố hình sự thì khởi tố, nếu không đủ dấu hiệu khởi tố hình sự thì không khởi tố.

    Nếu khởi tố vụ án trên, chiếc xe lúc này trở thành tang vật vụ án sẽ được tạm giữ, niêm phong để tiến hành điều tra xét xử. Nếu đúng như A đã tố cáo thì sẽ được trả về cho chủ chiếc xe. B sẽ phải có trách nhiệm bồi thường cho C giá trị chiếc xe.

    Bởi lẽ, khi ký kết hợp đồng dân sự mua bán, các bên đã phải cam kết về tính hợp pháp của giao dịch, nếu tài sản giao dịch là bất hợp pháp thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận, ai gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại.

    Đường chông gai chờ ngày mai ta bước tiếp!

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn anhdv352 vì bài viết hữu ích
    minhthao1980 (05/06/2013)
  • #267219   06/06/2013

    minhthao1980
    minhthao1980

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/05/2013
    Tổng số bài viết (101)
    Số điểm: 761
    Cảm ơn: 47
    Được cảm ơn 59 lần


    Chào các bạn !

    Như vậy cách hiểu của các bạn về khoản 1 điều 138 BLDS 2005 quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình theo ví dụ trên là chưa chính xác.

    Dù chiếc xe có giá trị bao nhiêu thì ông a cũng sẽ tố cáo ông b vì đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của mình;

    Tài sản sau khi giám định có giá trị dưới 4 triệu thì đây vẫn là vụ hình sự (nếu b đã bị phạt hành chính thì sẽ bị khởi tố, hoặc phạt hành chính và các hình thức phạt khác), không thể áp dụng dân sự trong trường hợp này được !

    Bà c là người mua bán tài sản do phạm tội mà có.

    Nếu bà c không biết hành vi phạm tội của b thì có thể được miễn xử lý và được quyền yêu cầu b trả lại tiền, chứ không phải được quyền giử lại chiếc xe đạp.

    Bà c không phải là người ngay tình vì đối tượng giao dịch (chiếc xe đạp) do phạm tội mà có, giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật.

    Trân trọng !

     
    Báo quản trị |  
  • #267230   06/06/2013

    anhdv352
    anhdv352
    Top 25
    Female
    Lớp 12

    Quảng Ninh, Việt Nam
    Tham gia:18/12/2010
    Tổng số bài viết (2388)
    Số điểm: 23782
    Cảm ơn: 826
    Được cảm ơn 1354 lần
    Moderator

    minhthao1980 viết:

    Chào các bạn !

    Như vậy cách hiểu của các bạn về khoản 1 điều 138 BLDS 2005 quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình theo ví dụ trên là chưa chính xác.

    Dù chiếc xe có giá trị bao nhiêu thì ông a cũng sẽ tố cáo ông b vì đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của mình;

    Tài sản sau khi giám định có giá trị dưới 4 triệu thì đây vẫn là vụ hình sự (nếu b đã bị phạt hành chính thì sẽ bị khởi tố, hoặc phạt hành chính và các hình thức phạt khác), không thể áp dụng dân sự trong trường hợp này được !

    Bà c là người mua bán tài sản do phạm tội mà có.

    Nếu bà c không biết hành vi phạm tội của b thì có thể được miễn xử lý và được quyền yêu cầu b trả lại tiền, chứ không phải được quyền giử lại chiếc xe đạp.

    Bà c không phải là người ngay tình vì đối tượng giao dịch (chiếc xe đạp) do phạm tội mà có, giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật.

    Trân trọng !

    Chào minhthao1980!

    Tôi không đồng ý với bạn ở phần in đậm.

    Nếu Hành vi của A chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không thể coi là vụ hình sự. Hơn nữa, nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính và đây là quan hệ hành chính chứ không phải quan hệ hình sự.

    Còn "hình thức phạt khác" thì không hiểu ý bạn muốn nói ở đây là hình thức phạt gì?

    Đúng là dù chiếc xe có giá trị bao nhiêu thì hành vi của A cũng là hành vi "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Nhưng vấn đề là hành vi đó đã tới mức truy cứu TNHS hay chưa? 

    Nếu C ko biết chiếc xe mua được của A là chiếc xe không thuộc quyền sở hữu của A thì không xử lý chứ không phải là "miễn xử lý". Trong quy định của luật hình sự về miễn Truy cứu TNHS thì không có "miễn xử lý" trường hợp như của C.

    Đối với khẳng định "Bà C không phải là người ngay tình vì đối tượng giao dịch do phạm tội mà có, giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật" thì không chính xác. Có vẻ bạn chưa đọc Điều 189 BLDS thì phải.

    "Ðiều 189. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình

    Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Ðiều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

    Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật."

    Vì chiếc xe đạp đó là động sản ko đăng ký quyền sở hữu nên khi thấy A đang chiếm hữu chiếc xe đó, có ý định bán thì C mua. Việc mua bán này, C không hề biết được rằng tài sản đó ko thuộc quyền sở hữu của A, và cũng không thể biết được tài sản đó là tài sản có được do hành vi trái pháp luật.

    C mua tài sản có được do hành vi trái pháp luật (tôi nói là trái pháp luật vì chưa khẳng định được hành vi của A đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa) nên đó là chiếm hữu ko có căn cứ pháp luật. Nhưng "ngay tình" là ở chỗ C không biết và không thể biết điều đó (vì chiếc xe đạp ko giống như chiếc xe máy là phải đăng ký quyền sở hữu.

    Việc C mua tài sản do hành vi trái pháp luật mà có được coi là "chiếm hữu không có căn cứ pháp luật" chứ không phải là "không ngay tình".

     

     

    Đường chông gai chờ ngày mai ta bước tiếp!

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn anhdv352 vì bài viết hữu ích
    tohienduong (15/06/2013)
  • #267441   06/06/2013

    minhthao1980
    minhthao1980

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/05/2013
    Tổng số bài viết (101)
    Số điểm: 761
    Cảm ơn: 47
    Được cảm ơn 59 lần


    Chào bạn anhdv352 !

    Tôi không đồng ý với bạn ở phần gạch chân.

    Nếu Hành vi của A chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không thể coi là vụ hình sự. Hơn nữa, nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính và đây là quan hệ hành chính chứ không phải quan hệ hình sự.

    Tôi không thể đồng ý với bạn nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính :

    -Ăn cắp, cướp giật, giết người,hiếp dâm,lừa đảo, lạm dung tín nhiệm …. Mà bị phạt hành chính thì là vi phạm hành chính ? Vậy các vi phạm hành chính đó quy định ở quy định “hành chính” nào ? Đất đai? Thuế ? Y tế ? hay lãnh vực nào ?

    -Không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là tội phạm, không bị khởi tố, xét xử nên không bị xử phạt bằng các hình phạt quy định trong luật hình sự. Nhưng đó là hành vi hình sự chứ. Ví dụ :

    Một đứa trẻ 12 tuổi, dùng súng của cha mình bắn chết bạn học ; Do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên chuyễn sang xử phạt hành chính; Theo luật xử phạt hành chính thì đứa trẻ đó cũng không phải chịu trách nhiệm về hành chính. Như vậy là hành vi giết người của đứa bé đó là vi phạm nội quy nhà trường hay sao ?

    -Để đi đến quyết định không khởi tố vụ án, khi xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan điều tra phải thực hiện theo luật tố tụng hình sự, bản thân quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can là quyết định tuân theo luật tố tụng hình sự. Vật chứng,bao gồm tang vật là chiếc xe đạp trên, cũng phải xử lý theo quy định luật tố tụng hình sự. (không phải là hình sự thì sao lại xử lý theo luật tố tụng hình sự)

    Còn "hình thức phạt khác" thì không hiểu ý bạn muốn nói ở đây là hình thức phạt gì?

    Đó là trục xuất nếu là người nước ngoài; giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi xử phạt hành chính.

    Đúng là dù chiếc xe có giá trị bao nhiêu thì hành vi của A cũng là hành vi "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Nhưng vấn đề là hành vi đó đã tới mức truy cứu TNHS hay chưa? 

    Đến mức truy cứu TNHS hay chưa thì đây vẫn là vụ việc mang tính  hình sự.

    Nếu C ko biết chiếc xe mua được của A là chiếc xe không thuộc quyền sở hữu của A thì không xử lý chứ không phải là "miễn xử lý". Trong quy định của luật hình sự về miễn Truy cứu TNHS thì không có "miễn xử lý" trường hợp như của C.

    Bây giờ thì bạn lại dùng luật hình sự để tranh luận sao? Theo bạn thì là vi phạm hành chính mà !

    Đối với khẳng định "Bà C không phải là người ngay tình vì đối tượng giao dịch do phạm tội mà có, giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật" thì không chính xác. Có vẻ bạn chưa đọc Điều 189 BLDS thì phải.

    Không áp dụng luật dân sự trong trường hợp này, nếu bà C muốn sử dụng luật dân sự để giử lại chiếc xe đạp do phạm tội của b mà có, thì cũng tốt thôi : Đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm.

    C mua tài sản có được do hành vi trái pháp luật (tôi nói là trái pháp luật vì chưa khẳng định được hành vi của A đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa) nên đó là chiếm hữu ko có căn cứ pháp luật. Nhưng "ngay tình" là ở chỗ C không biết và không thể biết điều đó (vì chiếc xe đạp ko giống như chiếc xe máy là phải đăng ký quyền sở hữu.

    Việc C mua tài sản do hành vi trái pháp luật mà có được coi là "chiếm hữu không có căn cứ pháp luật" chứ không phải là "không ngay tình".

    C không biết và không thể biết điều đó nên không phạm tội “ chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chứ không có quyền giử xe đạp của a lại.

    Trân trọng !

    Cập nhật bởi minhthao1980 ngày 06/06/2013 09:44:45 CH
     
    Báo quản trị |  
  • #267563   07/06/2013

    anhdv352
    anhdv352
    Top 25
    Female
    Lớp 12

    Quảng Ninh, Việt Nam
    Tham gia:18/12/2010
    Tổng số bài viết (2388)
    Số điểm: 23782
    Cảm ơn: 826
    Được cảm ơn 1354 lần
    Moderator

    minhthao1980 viết:

    Chào bạn anhdv352 !

    Tôi không đồng ý với bạn ở phần gạch chân.

    Nếu Hành vi của A chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không thể coi là vụ hình sự. Hơn nữa, nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính và đây là quan hệ hành chính chứ không phải quan hệ hình sự.

    Tôi không thể đồng ý với bạn nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính :

    -Ăn cắp, cướp giật, giết người,hiếp dâm,lừa đảo, lạm dung tín nhiệm …. Mà bị phạt hành chính thì là vi phạm hành chính ? Vậy các vi phạm hành chính đó quy định ở quy định “hành chính” nào ? Đất đai? Thuế ? Y tế ? hay lãnh vực nào ?[

    Dường như bạn không hiểu hành vi thế nào là hành vi vi phạm hành chính, hành vi thế nào là hành vi vi phạm hình sự thì phải. Hành vi "giết người, hiếp dâm" bạn nói thì không thể là vi phạm hành chính được vì tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi đó nó nghiêm trọng hơn, tới mức đủ để truy cứu TNHS. Tội giết người thì không thể phạt vi phạm hành chính được đâu bạn ạ.

    Sự khác nhau giữa Hành vi vi phạm hành chính và hành vi vi phạm pháp luật hình sự là ở danh giới "mức độ nguy hiểm của hành vi".

    Còn như bạn nói, với những hanh vi trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản người khác mà chưa tới mức truy cứu TNHS ( tôi nhấn mạnh là chưa tới mức truy cứu TNHS nhé) thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính. Nó là vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Bạn hãy tìm đọc nghị định73/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/07/2010 thì sẽ biết nó nằm trong quy định nào. Hẳn tôi không cần phải đưa ra điều luật cụ thể trong Nghị định đó nữa chứ.

     

    minhthao1980 viết:

    -Không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là tội phạm, không bị khởi tố, xét xử nên không bị xử phạt bằng các hình phạt quy định trong luật hình sự. Nhưng đó là hành vi hình sự chứ. Ví dụ :

    Một đứa trẻ 12 tuổi, dùng súng của cha mình bắn chết bạn học ; Do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên chuyễn sang xử phạt hành chính; Theo luật xử phạt hành chính thì đứa trẻ đó cũng không phải chịu trách nhiệm về hành chính. Như vậy là hành vi giết người của đứa bé đó là vi phạm nội quy nhà trường hay sao ?

    -Để đi đến quyết định không khởi tố vụ án, khi xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan điều tra phải thực hiện theo luật tố tụng hình sự, bản thân quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can là quyết định tuân theo luật tố tụng hình sự. Vật chứng,bao gồm tang vật là chiếc xe đạp trên, cũng phải xử lý theo quy định luật tố tụng hình sự. (không phải là hình sự thì sao lại xử lý theo luật tố tụng hình sự)

    Tôi chưa từng nghe tới thuật ngữ "hành vi hình sự" mà chỉ nghe tới "hành vi vi phạm pháp luật hình sự" mà thôi. Bạn phải dùng chuẩn thuật ngữ thì mới có thể hiểu được vấn đề. Trong pháp luật hành chính cũng quy định những hành vi như "lừa đảo, trộm cắp, cướp giật...", trong pháp luật hình sự cũng quy định những hành vi như trên. Nhưng ranh giới để xác định những hành vi đó là hành vi vi phạm pháp luật hình sự hay vi phạm pháp luật hành chính nó ở chỗ "mức độ nguy hiểm của hành vi" đó. Và trong các tội đó, để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đó, họ căn cứ vào "hậu quả" của hành vi. Tức giá trị tài sản mà người vi phạm hướng tới.

     

    minhthao1980 viết:

    Còn "hình thức phạt khác" thì không hiểu ý bạn muốn nói ở đây là hình thức phạt gì?

    Đó là trục xuất nếu là người nước ngoài; giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi xử phạt hành chính.

     Nếu bạn đã đọc các quy định của pháp luật thì nên hiểu rõ rằng: "trục xuất" có thể là một hình phạt theo luật hình sự, cũng có thể là biện pháp xử lý vi phạm hành chính.

     "giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi xử phạt hành chính" - Đây không phải là hình phạt. Mà là biện pháp xử lý hình sự hoặc hành chính khác áp dụng với 1 nhóm đối tượng nhất định.

     

    minhthao1980 viết:

    Đúng là dù chiếc xe có giá trị bao nhiêu thì hành vi của A cũng là hành vi "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản". Nhưng vấn đề là hành vi đó đã tới mức truy cứu TNHS hay chưa? 

    Đến mức truy cứu TNHS hay chưa thì đây vẫn là vụ việc mang tính  hình sự.

    Tôi sẽ không tranh luận nhiều với bạn về cái "tính hình sự" như bạn nói. Nhưng khi nói gì cũng cần có căn cứ phải không, bạn cho tôi cái khái niệm "vụ việc mang tính hình sự" với. Vì tôi không thấy trong luật cũng như bất cứ tài liệu khoa học nào có cụm từ "vụ việc mang tính hình sự".

    Bạn có thể giúp tôi mở rộng tầm hiểu biết không. Cảm ơn bạn nhiều.

     

    minhthao1980 viết:

    Nếu C ko biết chiếc xe mua được của A là chiếc xe không thuộc quyền sở hữu của A thì không xử lý chứ không phải là "miễn xử lý". Trong quy định của luật hình sự về miễn Truy cứu TNHS thì không có "miễn xử lý" trường hợp như của C.

    Bây giờ thì bạn lại dùng luật hình sự để tranh luận sao? Theo bạn thì là vi phạm hành chính mà !

    Thưa bạn, để xác định xem hành vi đó có vi phạm pháp luật hay không và vi phạm pháp luật gì thì không chỉ căn cứ vào một quy định của pháp luật mà phải căn cứ vào các quy định pháp luật khác nhau để xác định mới có thể chính xác được.

    Không thể theo cảm tính là nó vi phạm pháp luật hình sự nên chỉ chăm chăm đọc luật hình sự hay nó vi phạm pháp luật hành chính thì chỉ chăm chăm đọc luật hành chính được.

    Còn vấn đề tại sao "tôi dùng luật hình sự để tranh luận" là bởi tôi dùng chính cái luật mà bạn căn cứ ra để phản bác lại bạn thôi. Bạn cho rằng "C đã phạm tội, nhưng không biết hành vi của mình là hành vi phạm tội nên được miễn xử lý". Khi đã nói tới "phạm tội" tức là đề cập tới luật hình sự. Do đó, tôi phải dụng luật hình sự để phủ định ý kiến của bạn, điều đó là hợp lý. Không phải sao.

    Đã nói tới "phạm tội" tức là hành vi vi phạm quy định của luật hình sự. Cấu thành tội phạm trong BLHS.

    Bạn nói: C phạm tội. Vậy bạn có thể phân tích giúp tôi Cấu thành tội phạm mà C đã phạm được không?

    Tôi giả sử (đây là tôi giả thiết nhé, chứ không phải là khẳng định hay chấp nhận khẳng định của bạn nên bạn đừng hiểu nhầm) như bạn nói là C phạm tội, nhưng tôi tìm khắp luật hình sự không có quy định nào quy định "người phạm tội nếu không biết hành vi của mình là hành vi phạm tội thì được miễn xử lý". Bạn vui lòng giúp tôi đưa ra căn cứ pháp luật cho khẳng định trên của bạn với. Cảm ơn bạn nhiều.

     

    minhthao1980 viết:

    Đối với khẳng định "Bà C không phải là người ngay tình vì đối tượng giao dịch do phạm tội mà có, giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật" thì không chính xác. Có vẻ bạn chưa đọc Điều 189 BLDS thì phải.

    Không áp dụng luật dân sự trong trường hợp này, nếu bà C muốn sử dụng luật dân sự để giử lại chiếc xe đạp do phạm tội của b mà có, thì cũng tốt thôi : Đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm.

    Bạn cho tôi lý do tại sao không áp dụng luật dân sự trong trường hợp này? Tại sao bạn sử dụng thuật ngữ "ngay tình" mà bạn lại nói không áp dụng luật dân sự trong trường hợp này. Tôi chỉ mới thấy thuật ngữ "ngay tình" trong luật dân sự chứ chưa thấy thuật ngữ này trong các luật khác.

    Bạn nói đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Bạn giúp tôi chỉ ra các dấu hiệu cấu thành tội phạm này với. Vì khi nói thì phải chứng minh, không nên chỉ khẳng định một câu như vậy

     

    minhthao1980 viết:

    C mua tài sản có được do hành vi trái pháp luật (tôi nói là trái pháp luật vì chưa khẳng định được hành vi của A đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa) nên đó là chiếm hữu ko có căn cứ pháp luật. Nhưng "ngay tình" là ở chỗ C không biết và không thể biết điều đó (vì chiếc xe đạp ko giống như chiếc xe máy là phải đăng ký quyền sở hữu.

    Việc C mua tài sản do hành vi trái pháp luật mà có được coi là "chiếm hữu không có căn cứ pháp luật" chứ không phải là "không ngay tình".

    C không biết và không thể biết điều đó nên không phạm tội “ chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chứ không có quyền giử xe đạp của a lại.

    Trân trọng !

    Khoản 1 Điều 250 BLHS quy định: "Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 

    1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm"

    Theo quy định này thì rõ ràng hành vi của C là không phạm tội.

    C có được tài sản (chiếc xe đạp) mặc dù không có căn cứ pháp luật nhưng "ngay tình" (ngay tình ở đâylà C không biết và không thể biết tài sản đó do người khác vi phạm pháp luật mà có). Chính vì điều đó mà pháp luật mới bảo vệ người thứ 3 ngay tình như C theo quy định của luật dân sự. (giao dịch giữa B và C là giao dịch dân sự, do đó, đương nhiên phải áp dụng luật dân sự trong trường hợp này để giải quyết).

    Tôi có cảm giác, bạn giải thích các vấn đề mang nhiều "cảm tính" quá. Cũng chưa thực sự tìm hiểu hết các quy định của pháp luật hoặc có tìm hiểu nhưng chưa hiểu hết các quy định của luật, do đó, nhiều khẳng định không căn cứ vào luật. Tôi sẵn sàng dành thời gian trao đổi, tranh luận với bạn về vấn đề này. Tuy nhiên, tôi sẽ không tranh luận với bạn chừng nào những khẳng định của bạn được dựa trên những căn cứ pháp luật.

    Trân Trọng!

     

    Đường chông gai chờ ngày mai ta bước tiếp!

     
    Báo quản trị |  
    3 thành viên cảm ơn anhdv352 vì bài viết hữu ích
    QuyetQuyen945 (07/06/2013) tohienduong (15/06/2013) minhthao1980 (07/06/2013)
  • #267715   07/06/2013

    minhthao1980
    minhthao1980

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/05/2013
    Tổng số bài viết (101)
    Số điểm: 761
    Cảm ơn: 47
    Được cảm ơn 59 lần


     Chào bạn anhdv352 !

    Tôi thừa nhận bài viết của bạn rất hửu ích với tôi. Nhiều vấn đề bạn viết tôi CHƯA HỀ BIẾT, dù điều đó đơn giản đối với bạn ! Tôi cũng nhờ bạn mà biết nghị định 73/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/07/2010. Sai thì tôi nhận tôi sai.

    Tuy nhiên, Giả sử b không bị khởi tố (dù thực tế thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố : đã bị xử phạt, tái phạm hành vi vi phạm nhiều lần ...) Bạn có thể giải thích thêm cho tôi :

    -Luật Hình sự (tố tụng hình sự) và hành chính (NĐ 73/2010/NĐ-CP) đều xác định chiếc xe là "tang vật". "dựa trên những căn cứ pháp luật" nào bạn cho là xử lý theo luật dân sự trong trường hợp này đối với bà c (cho nhận xe đạp)?. 

    -Tôi có biết vi phạm hành chính là bị phạt hành chính ! Nhưng :

    "dựa trên những căn cứ pháp luật" nào, bạn nói : nếu phạt hành chính thì đó là vi phạm hành chính ? Như vậy thì tại sao lại cho quyền người bị xử phạt khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định xử phạt hành chính, vẫn phải thực hiện đóng phạt đầy đủ? Nếu bạn nói đúng thì Tòa án vì sao có quyền hủy các quyết định xử phạt hành chính khi họ đã vi phạm?

    Một đứa trẽ dưới 12 tuổi vi phạm hành chính thì không bị xử phạt vi phạm hành chính, suy ra không vi phạm hành chính?

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn minhthao1980 vì bài viết hữu ích
    phantantai2012 (07/06/2013)
  • #267718   07/06/2013

    QuyetQuyen945
    QuyetQuyen945
    Top 50
    Male
    Lớp 11

    Quảng Trị, Việt Nam
    Tham gia:28/10/2010
    Tổng số bài viết (1229)
    Số điểm: 15298
    Cảm ơn: 371
    Được cảm ơn 490 lần


    Chào bạn Minhthao1980!

    Tôi xin có ý kiến về vấn đề như sau: 

    Tôi nghĩ những bài viết sau này của bạn và Vân Anh đều xuất phát từ ví dụ bạn đưa ra:

    Tôi nghĩ vấn đề này không cần phải tranh luận nhiều, chỉ cần bạn hình dung được phạm vi điều chỉnh của pháp luật thì sẽ hiểu đúng:

    1. Quan hệ mượn trong tình huống trên chỉ xét ở góc độ dân sự vì vậy áp dụng Điều 257 BLDS.

    2. Ví dụ của bạn quan hệ dân sự đã bị chuyển thành quan hệ hình sự rồi => khi giải quyết thì phải áp dụng Pháp luật hình sự để xử lý. 

    Trân trọng!

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn QuyetQuyen945 vì bài viết hữu ích
    tohienduong (15/06/2013) phantantai2012 (07/06/2013)
  • #269442   15/06/2013

    tohienduong
    tohienduong

    Sơ sinh

    Quảng Nam, Việt Nam
    Tham gia:11/05/2013
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 330
    Cảm ơn: 7
    Được cảm ơn 0 lần


    Chào các bạn!

    Mình mới học năm đầu chưa học hết luật nên không nắm nhiều được các điều khoản của luật,các nghị định Chính phủ.Nhưng trong ví dụ trên mình có một thắc mắc là giao dịch giữa ông b và chị c có coi là vô hiệu do bị lừa dối không? trong điều 132 BLDS 2005:Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối,đe dọa có khái niệm về lừa dối "lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,tính chất của đối tượng hoặ nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó"

    Ông b đã lừa dối chị c,  mình là chủ sở hữu của chiếc xe đạp đó,vậy giao dịch có được coi là lừa dối về mặt chủ thể không?

     
    Báo quản trị |