Lang thang, tình cờ tìm thấy cái này, cũng liên quan đến việc phòng, chống tham nhũng -> các bạn tham khảo luôn nè:
CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số 61/TTr–CP Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2007
TỜ TRÌNH
Về Dự án Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
____________
Kính gửi: Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ tư về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI (2002 - 2007); sau một thời gian nghiên cứu, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn quản lý tài sản nhà nước trong hơn 10 năm qua; trao đổi và tiếp thu ý kiến đóng góp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, các chuyên gia trong và ngoài nước; khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để vận dụng vào thực tế xây dựng Dự án Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước ở Việt Nam; Chính phủ kính trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội Dự án Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước với những nội dung chủ yếu sau:
I. VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN NHÀ NƯỚC
1. Thực trạng quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
Theo Hiến pháp năm 1992 thì: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn do nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là tài sản nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Đây là tiền đề, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Theo Điều 200 Bộ Luật Dân sự 2005 thì tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định.
Công tác quản lý tài sản nhà nước đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, nhất là từ khi có Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước. Những nguyên tắc quản lý tài sản nhà nước tại Nghị định này được coi là khung pháp luật cơ bản, điều chỉnh các nội dung liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Nhờ đó, công tác quản lý tài sản nhà nước đã thu được những kết quả quan trọng:
Một là, đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật giúp cho việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, kỷ luật, công khai minh bạch và có hiệu quả:
- Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, mua sắm phương tiện đi lại và các trang thiết bị phục vụ cho các cán bộ, công chức, viên chức. Đây là các căn cứ quan trọng để xây dựng và bố trí dự toán ngân sách cho đầu tư, mua sắm và kiểm soát chi tiêu, đảm bảo công bằng, hiệu quả, công khai, minh bạch. Thực tế cho thấy, sau khi các tiêu chuẩn định mức, chế độ sử dụng tài sản được ban hành, việc mua sắm tài sản vượt chế độ tiêu chuẩn, sử dụng tài sản lãng phí đã giảm đáng kể, tình trạng lạm dụng tài sản công vào việc riêng cũng đã dần được khắc phục.
- Về quản lý đất đai: Quốc hội đã ban hành Luật đất đai năm 1993 và được bổ sung, sửa đổi năm 1998, 2001 và 2003. Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định quy định cụ thể về thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư...
- Về quản lý tài nguyên, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản dữ trữ quốc gia và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: Đây là lĩnh vực mới, trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và hội nhập thì vấn đề quản lý các nguồn vật chất này, kiểm soát để khai thác có hiệu quả ngày càng quan trọng và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật. Chính phủ đã trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật Khoáng sản, Luật Đê điều, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật di sản văn hoá, Luật Đường sắt, Luật doanh nghiệp, Luật Tài nguyên nước, Pháp lệnh về Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia... Theo đó đã xác lập được các nguyên tắc quản lý cơ bản quan trọng đối với tài sản nhà nước ở những lĩnh vực này.
Hai là, Nhà nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng, giá trị và cơ cấu phân bố sử dụng tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp. Các Bộ, ngành và địa phương đã bước đầu kiểm soát được việc sử dụng tài sản công, hạn chế dần việc sử dụng tài sản không đúng mục đích, sử dụng lãng phí, thất thoát tài sản.
Cơ chế quản lý tài sản công đang từng bước được hình thành theo tinh thần đổi mới, gắn với thị trường. Theo đó, các hoạt động mua, bán tài sản nhà nước, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất dần theo sát giá thị trường, cơ chế này cho phép huy động được một bộ phận quan trọng nguồn lực tiềm tàng cho đầu tư phát triển; đồng thời góp phần ngăn chặn tiêu cực, chống thất thoát lãng phí. Bên cạnh đó còn từng bước thực hiện công khai hoá việc sử dụng tài sản, tạo lập cơ sở, môi trường pháp lý căn bản cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản. Đây là những nội dung rất cơ bản để Nhà nước thực hiện quản lý đầu tư, xây dựng mới, cải tạo, mua sắm, điều chuyển, thu hồi, bán, chuyển đổi hình thức sở hữu, thanh xử lý tài sản nhà nước.
Ba là, Xuất phát từ thực tế sử dụng tài sản công, đặc biệt là nhà, đất còn nhiều lãng phí, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện sắp xếp lại nhà đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó mở ra thực hiện trên cả nước. Theo chính sách này, toàn bộ trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, được bố trí, sắp xếp lại theo nguyên tắc: Di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh ô nhiễm ra các khu công nghiệp, khu kinh tế. Cơ quan đơn vị được chủ động sắp xếp lại nhà, đất được giao theo đúng chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa phương, số dôi dư được sử dụng để bán, chuyển nhượng hoặc chuyển mục đích sử dụng, tạo ra nguồn tài chính mới để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc hoặc được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở mới, đầu tư chiều sâu, tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh; giành quỹ đất có lợi thế thương mại cho hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ, du lịch; đồng thời giành quỹ đất để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, bệnh viện và các công trình phúc lợi quan trọng khác, ... góp phần chỉnh trang quy hoạch lại đô thị theo hướng hiện đại. Kết quả ban đầu cho thấy chính sách này mang lại kết quả quan trọng cả về kinh tế và xã hội.
Bốn là, Quản lý tài sản nhà nước từ chỗ thụ động với công tác lập và chấp hành ngân sách, nay đã chủ động gắn với công tác lập và chấp hành ngân sách; gắn giá trị với hiện vật, đồng thời đảm bảo phù hợp với quá trình đầu tư xây dựng mới, mua sắm, sử dụng tài sản.
Năm là, Thực hiện phân cấp rõ ràng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; giữa các cơ quan có chức năng quản lý tài sản nhà nước về tài sản và các cơ quan, đơn vị được giao quản lý sử dụng tài sản nhà nước; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong quản lý, trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản đảm bảo cho việc sử dụng tài sản công đi dần vào nề nếp, kỷ cương và minh bạch.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác quản lý tài sản nhà nước cũng còn nhiều tồn tại, thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau:
Một là, Pháp luật về quản lý đối với một số lĩnh vực tài sản còn chưa đủ, thiếu đồng bộ, chưa điều chỉnh bao quát hết các quan hệ về tài sản trong kinh tế thị trường, nhiều lĩnh vực chưa đầy đủ, tính pháp lý chưa cao (tài sản nhà nước tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức, tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước), dẫn đến thiếu môi trường pháp lý minh bạch, đầy đủ để quản lý tài sản nhà nước một cách có hiệu quả, tiết kiệm, ở một số nơi còn xảy ra tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát tài sản nhà nước, gây bức xúc trong công luận và dư luận.
Hai là, Vẫn còn tình trạng sử dụng tài sản nhà nước sai mục đích, lãng phí, thể hiện tập trung ở:
- Một bộ phận đất đai, trụ sở làm việc của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, nhất là tại các đô thị còn bị sử dụng sai mục đích như: bỏ trống, cho thuê, sử dụng để kinh doanh, dịch vụ... Một số trường hợp thực hiện mua sắm, điều chuyển, thanh lý, ... tài sản nhà nước sai thẩm quyền, sai tiêu chuẩn, chế độ dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước.
- Trong đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản: Tình trạng đầu tư, mua sắm vượt tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép vẫn còn tồn tại mặc dù đã hạn chế đáng kể. Tình trạng sử dụng tài sản công lãng phí, sai mục đích còn lớn.
Ba là, Kỷ cương phép nước chưa thật nghiêm minh, chế tài xử lý những sai phạm quản lý, sử dụng trụ sở làm việc; mua sắm sử dụng xe ô tô công, trang thiết bị, ... còn chưa kịp thời, có trường hợp còn dùng quỹ công để đền bù thiệt hại do mua sắm, sử dụng sai dẫn đến tác dụng răn đe bị hạn chế.
Bốn là, Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản công còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, bị động. Quy trình nghiệp vụ quản lý chưa khoa học và lạc hậu. Tổ chức bộ máy cơ quan thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản công chưa được chú trọng kiện toàn.
2. Sự cần thiết phải ban hành Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững đòi hỏi phải phát huy cao độ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Tài sản nhà nước nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ phát huy được sức mạnh vật chất rất to lớn trong quá trình này. Để phát huy được cần phải có một khuôn khổ chính sách và pháp luật có hiệu lực pháp lý cao và đồng bộ.
2.2. Tài sản nhà nước là điều kiện vật chất cơ bản, giữ vị trí quan trọng đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước, an ninh, quốc phòng, sự nghiệp kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần để giải phóng sức sản xuất xã hội...Nhà nước hiện đang giao tài sản của mình cho nhiều đối tượng khác nhau quản lý, khai thác, sử dụng như: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế và các tổ chức, cá nhân khác... Trong đó, quyền sở hữu tài sản thuộc về Nhà nước, còn quyền sử dụng tài sản thuộc về các đối tượng trực tiếp sử dụng (có cả những đối tượng thuộc các hình thức sở hữu khác ngoài Nhà nước). Trong kinh tế thị trường, tồn tại đồng thời nhiều hình thức sở hữu, nảy sinh vấn đề: Nếu Nhà nước không có biện pháp quản lý chặt chẽ thì một bộ phận nguồn lực (tài sản nhà nước) thuộc sở hữu của Nhà nước bị chuyển dịch quyền sở hữu sang các chủ thể khác (ngoài nhà nước), làm suy giảm nguồn lực của Nhà nước.
2.3. Việc khai thác, sử dụng tài sản nhà nước hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập mà một trong những nguyên nhân quan trọng là hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, đồng bộ, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm. Hiện nay văn bản pháp lý cao nhất về quản lý tài sản nhà nước là Nghị định số 14/1998/ NĐ-CP ngày 6/3/1998, Nghị định số 137/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ, với phạm vi điều chỉnh hạn chế và nhiều quy phạm cần phải sửa đổi bổ xung, chưa theo kịp với yêu cầu thực tế và quá trình hội nhập hoặc cần phải nâng cao giá trị pháp lý.
2.4. Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, cơ chế tài chính đối với một số lĩnh vực, một số đối tượng cần có sự thay đổi quan trọng, nhất là cơ chế quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập đã xã hội hoá. Mặt khác, sự phát triển của thị trường bất động sản cũng đang đòi hỏi cần có cơ chế thích hợp để phát huy thế mạnh trong việc sử dụng nguồn lực vật chất rất lớn là tài sản thuộc sở hữu nhà nước... Để phù hợp với các tiến trình này, cơ chế quản lý tài sản nhà nước cũng cần được bổ sung cho phù hợp và được thể chế hoá thành luật.
Từ những vấn đề nêu trên, việc ban hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước là rất cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và xu thế hội nhập quốc tế. Đây là một trong các nội dung đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X coi là một trong những giải pháp quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2006-2010:"Ban hành Luật quản lý tài sản nhà nước nhằm quản lý, sử dụng có hiệu quả nhà đất và các tài sản khác của Nhà nước".
II. VỀ YÊU CẦU XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
Xuất phát từ thực tế kết quả công tác quản lý tài sản nhà nước trong thời gian qua, để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu huy động nguồn lực tập trung cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, phù hợp với đổi mới cơ chế kinh tế thị trường, xây dựng dự án Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước phải bảo đảm các yêu cầu sau:
Một là, quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định và nâng cao đời sống cán bộ, công chức và toàn thể nhân dân; góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng.
Hai là, bảo đảm sự công bằng, minh bạch về quyền và trách nhiệm của nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Ba là, quy định rõ việc phân cấp quản lý tài sản nhà nước, trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Bốn là, đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Vận hành đúng các nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Xử lý hài hoà các lợi ích giữa Nhà nước, tổ chức kinh tế và dân cư.
III. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT
Một là, kế thừa và phát triển các chính sách hiện hành về quản lý tài sản nhà nước, luật hoá một số quy định đã phát huy hiệu quả, phù hợp để nâng cao tính pháp lý, đảm bảo cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn trong thực tế quản lý, sử dụng tài sản.
Hai là, đổi mới phương thức quản lý tài sản nhà nước phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội theo nguyên tắc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đảm bảo quản lý, chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm có hiệu quả tài sản nhà nước.
Ba là, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; phân định rõ tài sản của nhà nước và tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Bốn là, tiếp thu những kinh nghiệm quản lý tài sản nhà nước của các nước, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
IV. VỀ PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Về phạm vi điều chỉnh
a) Luật này quy định về:
- Quyền, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp;
- Thẩm quyền quyết định xác lập quyền sở hữu tài sản của nhà nước; quản lý, xử lý tài sản dược xác lập quyền sở hữu của nhà nước.
b) Việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước không thuộc khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và các quy định tại Chương I, Chương II, Chương III, Chương IX và Chương X Luật này.
2. Đối tượng áp dụng
a) Cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước;
b) Cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
c) Cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
V. VỀ BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG DỰ THẢO LUẬT
Dự thảo Luật được kết cấu thành 10 chương, có 61 Điều, cụ thể:
- Chương I: Những quy định chung
Chương này có 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7), quy định khái niệm tài sản nhà nước; phạm vi tài sản nhà nước điều chỉnh tại luật này, đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ và các quy định mang tính nguyên tắc về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, chính sách quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
- Chương II: Quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước
Chương này gồm 8 Điều (từ Điều 8 đến Điều 15), quy định những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về tài sản nhà nước; trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương, Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
- Chương III: Quyền và nghĩa vụ của đối tượng được giao trực tiếp sử dụng tài sản nhà nước
Chương này gồm 3 Điều (từ Điều 16 đến Điều 18), quy định những nội dung cơ bản về: Quyền và nghĩa vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quyền và nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
- Chương IV: Quản lý tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước
Chương này gồm 15 Điều (từ Điều 19 đến Điều 33), quy định các nội dung quản lý nhà nước về tài sản gồm: đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản, lập hồ sơ, kê khai, hạch toán, sửa chữa, bảo dưỡng, thu hồi, điều chuyển, thanh lý, bán, cho thuê, tiêu huỷ tài sản, kiểm kê, báo cáo, công khai sử dụng tài sản và quản lý tài sản nhà nước của các cơ quan nhà nước Việt Nam tại nước ngoài.
- Chương V: Quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập
Chương này gồm 8 Điều (từ Điều 34 đến Điều 41) quy định về nguồn hình thành tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập, việc quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị công lập nói chung và quản lý việc dùng tài sản nhà nước vào mục đích hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ, góp vốn liên doanh, liên kết, ... quy định về quyền và nghĩa vụ của đơn vị sự nghiệp công lập; về quản lý tài sản nhà nước khi đơn vị sự nghiệp công lập được chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá.
- Chương VI: Quản lý tài sản nhà nước tại tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
Chương này gồm 3 Điều (từ Điều 42 đến Điều 44) quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các tổ chức này và phân định rõ tài sản nhà nước với tài sản của các tổ chức.
- Chương VII: Cho thuê tài sản nhà nước
Chương này có 5 Điều (từ Điều 45 đến Điều 49), quy định về phạm vi tài sản cho thuê, thẩm quyền quyết định cho thuê tài sản, quản lý tiền thu được từ cho thuê, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân thuê tài sản nhà nước.
- Chương VIII: Xác lập quyền sở hữu tài sản của nhà nước và quản lý, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước
Chương này có 5 Điều (từ Điều 50 đến Điều 54), quy định về phạm vi tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước; thẩm quyền quyết định xác lập quyền sở hữu của nhà nước về tài sản; quy định việc quản lý, xử lý và chế độ quản lý tài chính đối với tài sản xác lập quyền sở hữu nhà nước.
- Chương IX: Kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về quản lý tài sản nhà nước
Chương này có 5 Điều (từ Điều 55 đến Điều 59), quy định về việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
- Chương X: Điều khoản thi hành: Chương này có 2 Điều (từ Điều 60 đến Điều 61) quy định về quản lý tài sản nhà nước thuộc lĩnh vực quốc phòng, anh ninh; thời hiệu và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật.
VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Qua nghiên cứu soạn thảo và hội thảo Dự án luật này, Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến một số vấn đề sau:
1- Về phạm vi điều chỉnh của Luật này (Điều 1).
- Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thuật ngữ Tài sản nhà nước theo quy định tại Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước: Tài sản nhà nước là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước theo quy định của pháp luật, đất đai, rừng, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.
Định nghĩa này xuất phát từ quy định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 " Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân"; và quy định ở Bộ luật Dân sự năm 1995 tại Điều 205 – Tài sản thuộc sở hữu toàn dân (nay là Điều 200 Bộ luật Dân sự 2005).
Theo các quy định trên thì tài sản nhà nước có phạm vi rất rộng, ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đồng thời, mỗi loại tài sản có đặc trưng riêng, có cơ chế vận động riêng, ... Do đó phải có cơ chế quản lý phù hợp thì mới phát huy tốt công dụng của nó. Để quản lý từng loại tài sản nhà nước cụ thể, đến nay Quốc Hội đã ban hành nhiều đạo luật như: Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Đê điều, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật di sản văn hoá, Luật Đường sắt, Luật Tài nguyên nước, Luật nhà ở, Pháp lệnh về Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, ... Chính vì vậy một số ý kiến cho rằng Luật này chỉ nên điều chỉnh các quan hệ trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức đảng, đoàn thể, các hội và tài sản xác lập quyền sở hữu nhà nước là các lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến cho rằng các luật chuyên ngành nói trên mới chủ yếu quy định về quy trình, quy phạm về mặt kỹ thuật trong quản lý sử dụng từng loại tài sản. Đa số các luật chuyên ngành (trừ Luật đất đai 2003) chưa thể hiện các nội dung quản lý nhà nước đối với tài sản với tư cách là nguồn lực tài chính để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, việc xây dựng và ban hành Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước phải đứng trên quan điểm Nhà nước là chủ thể duy nhất sở hữu tài sản nhà nước, có trách nhiệm khai thác có hiệu quả tài sản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; do đó luật này phải quy định rõ nguyên tắc, nội dung quản lý của nhà nước đối với tất cả các loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Chính phủ nghiêng về nhóm ý kiến thứ nhất, để hạn chế chồng chéo trong phạm vi điều chỉnh của các luật, đồng thời tạo điều kiện để luật này có thể đi sâu vào các quy phạm quản lý cụ thể các lĩnh vực chưa được luật hoá và có nhiều vấn đề thực tiễn quản lý đòi hỏi phải thể chế hoá để thực hiện tốt. Tuy nhiên, để bảo đảm phạm vi điều chỉnh của Luật vẫn bao quát được toàn bộ tài sản nhà nước, dự thảo Luật quy định đối với các tài sản nhà nước đã có luật chuyên ngành thì thực hiện theo quy định của luật chuyên ngành song vẫn phải thực hiện các quy định chung (về nguyên tắc, trách nhiệm, kiểm tra và xử lý vi phạm) theo quy định của Luật này.
2. Về các nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Nguyên tắc 1. Mọi tài sản nhà nước đều được giao cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc quản lý, sử dụng, bảo tồn và phát triển tài sản nhà nước.
Đây là nguyên tắc phổ biến trong các luật tài sản công hoặc luật tương đương của các quốc gia. Theo đó, mọi tài sản nhà nước phải được giao cho "người" quản lý, sử dụng.
Người được giao quản lý, sử dụng tài sản có quyền khai thác tài sản nhà nước đúng mục đích được giao, đảm bảo sử dụng tiết kiệm có hiệu quả và phải chịu trách nhiệm nếu có sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản.
Nguyên tắc 2. Quản lý nhà nước về tài sản nhà nước được thực hiện thống nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan và trách nhiệm phối hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản.
Đây là nguyên tắc thể hiện chủ sở hữu duy nhất là nhà nước đối với tài sản nhà nước. Chính là vì chỉ có một chủ sở hữu duy nhất quản lý tài sản nhà nước nên phải thống nhất chế độ, tiêu chuẩn và xử lý vi phạm. Mặt khác, tài sản nhà nước đa dạng, phục vụ nhiều mục đích khác nhau, có phạm vi phát huy tác dụng khác nhau. Vì vậy để quản lý, sử dụng có hiệu quả cần phân công, phân cấp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành, từng cấp đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác và được cụ thể hoá trong luật này.
Nguyên tắc 3. Tài sản nhà nước phải được đầu tư, trang bị, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức.
Đây là nguyên tắc đồng thời là yêu cầu trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Theo đó, trước hết tài sản nhà nước phải được sử dụng đúng mục đích (nhà trụ sở thì không được sử dụng để ở; xe ô tô thì không được sử dụng trái mục đích, ...), đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức. Đây là căn cứ quan trọng để bố trí dự toán đầu tư, mua sắm, cũng như để quản lý, sử dụng và kiểm soát chi tiêu, đồng thời cũng là chuẩn mực để xác định mức độ vi phạm và xử lý đúng người, đúng việc (nếu xảy ra). Đồng thời việc sử dụng tài sản nhà nước phải tiết kiệm, có hiệu quả, đem lại lợi ích cao nhất cho nhà nước, cho nhân dân xét về trước mắt cũng như lâu dài.
Nguyên tắc 4. Tài sản nhà nước phải được quản lý, hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị phù hợp với điều kiện thực tiễn và theo quy định của pháp luật. Việc xác định giá trị tài sản trong các quan hệ mua, bán, thuê, cho thuê, liên doanh liên kết, thanh lý tài sản thực hiện theo nguyên tắc thị trường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Có một số ý kiến cho rằng không nên quy định việc định giá tài sản nhà nước phải theo thị trường, vì trên thực tế nhiều tài sản nhà nước quan trọng như tài nguyên, rừng, đất đai chưa được xác định hoặc rất khó xác định giá. Có một số ý kiến khác lại cho rằng để quản lý tốt phải xác định toàn bộ theo giá thị trường.
Chính phủ cho rằng việc định giá tài sản là cần thiết, vì chỉ có xác định giá trị mới làm cho tài sản thực sự là hàng hoá, tạo cơ sở để thực hiện theo thị trường. Tuy nhiên một bộ phận tài sản nhà nước trong đó có đất đai, tài nguyên, quyền khai thác vùng trời, vùng biển là các loại tài sản đặc biệt vừa là kết tinh lao động của nhiều thế hệ ông cha, vừa là thành quả của đấu tranh lập nước và giữ nước, vì vậy không thể mua, bán theo thị trường một cách đơn giản mà phải thể hiện sự kiểm soát, điều tiết của nhà nước, phải tôn trọng quyền sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện. Vì vậy dự án luật quy định theo hướng: cần xác định giá trị tài sản để ghi chép, theo dõi đầy đủ. Còn việc thực hiện giá thị trường chỉ trong một số quan hệ như bán, chuyển nhượng quyền sử dụng, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước, liên doanh liên kết.
Nguyên tắc 5. Tài sản nhà nước phải được bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa theo chế độ quy định. Nguyên tắc này đảm bảo việc sử dụng tài sản nhà nước hiệu quả, tiếp kiệm, tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, tránh sử dụng kiểu "vắt kiệt" tài sản, đồng thời cho phép bố trí hợp lý, khoa học giữa chi thường xuyên và chi đầu tư trong dự toán ngân sách nhà nước nói chung cũng như trong kế hoạch tài chính của từng cơ quan, đơn vị nói riêng.
Nguyên tắc 6. Thực hiện công khai việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này làm rõ và bao quát hơn phần đã đề cập ở nguyên tắc 4. Theo nguyên tắc này, toàn bộ quá trình đầu tư, mua sắm, sử dụng, hiệu quả sử dụng tài sản nhà nước phải công khai (trừ một số nội dung không được phép công khai theo quy định của pháp luật bảo vệ bí mật quốc gia). Đây là nhân tố rất quan trọng để tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức và toàn thể nhân dân đối với việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
3. Về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các tổ chức hội, đoàn thể
Theo Luật Ngân sách nhà nước, vấn đề tài chính của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp chia làm 2 loại. Một loại do ngân sách đảm bảo cân đối kinh phí hoạt động và một loại do tổ chức tự đảm bảo kinh phí hoạt động, ngân sách nhà nước hỗ trợ trong một số trường hợp cụ thể.
Tại Dự án luật này, vấn đề quản lý tài sản nhà nước của các tổ ch���c Đảng đoàn thể, các hội cũng được phân thành 2 nhóm: Nhóm các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội thì quyền và trách nhiệm quy định như đối với cơ quan nhà nước; Nhóm các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thì chia thành 2 loại: Nếu tài sản hình thành từ ngân sách nhà nước và coi như ngân sách nhà nước thì tổ chức chỉ có quyền sử dụng; nếu tài sản không có nguồn ngân sách nhà nước hoặc không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì tổ chức có quyền sở hữu tài sản, đương nhiên có quyền sử dụng.
4. Về các cơ chế mới trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước:
Để phù hợp với tiến trình đổi mới và hội nhập, dự thảo Luật có quy định một số nội dung đổi mới cơ chế mới trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước như sau:
a. Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào việc đầu tư phát triển và bảo vệ tài tài sản nhà nước như: đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, tài nguyên....
b. Trong trường hợp nhà nước chưa bố trí đầu tư xây dựng, mua sắm hoặc cân nhắc tính hiệu quả thì có thể thuê tài sản để sử dụng đối với một số loại tài sản như trụ sở làm việc, xe ô tô công.
c. Cho phép sử dụng tài sản nhà nước để cho thuê như cho thuê quyền khai thác tài sản cơ sở hạ tầng (đường, cầu, cảng...), cho thuê tài sản nhà nước khác tạm thời dư thừa hoặc chưa sử dụng hết công suất.
d. Quy định việc mua, bán, thanh lý tài sản nhà nước phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường thông qua phương thức đấu thầu, đấu giá.
e. Cho phép đơn vị sự nghiệp công lập khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển sang hoạt động theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần hoặc cơ sở ngoài công lập được tiếp tục thuê hoặc ưu tiên mua lại tài sản nhà nước.
5. Về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài sản nhà nước ở trung ương và địa phương:
Có ý kiến cần đưa vào Luật để tạo cơ sở chấn chỉnh và tăng cường bộ máy của Chính phủ vào Luật. Tuy nhiên có một số ý kiến đề nghị không nên đưa vấn đề tổ chức bộ máy của các Bộ, địa phương vào Luật. Dự thảo tiếp thu xây dựng theo hướng này, cụ thể chỉ nêu yêu cầu hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý công sản đủ năng lực giúp chính quyền các cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản nhà nước nhằm nâng cao năng lực quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước.
6. Vấn đề quản lý, sử dụng tài sản trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng:
Các ý kiến tham gia đều nhất trí tài sản nhà nước trong lĩnh vực này cũng phải quản lý theo các nguyên tắc quy định trong luật này. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng đây là lĩnh vực có tính chất đặc thù, vì vậy cần có văn bản quy định riêng do Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi ban hành và báo cáo trong kỳ họp gần nhất.
Dự thảo Luật quy định: Căn cứ vào các nguyên tắc quy định của Luật này, Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
7. Về tài sản nhà nước của các cơ quan nhà nước Việt Nam ở nước ngoài:
Có nhiều ý kiến đề nghị xử lý đặc thù như tài sản nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Chính phủ cho rằng mặc dù có đặc thù, song về cơ bản quản lý tài sản nhà nước trong lĩnh vực này thực hiện như các cơ quan nhà nước. Do đó nội dung này đã được đưa vào Chương IV của Dự thảo và giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Trên đây là những nội dung liên quan đến Dự án Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, kính trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định./.
Nơi nhận: TM.CHÍNH PHỦ
- Như trên; TUQ.THỦ TƯỚNG
- Thủ tướng và các Phó Thủ tướng; BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
- Uỷ ban Pháp luật QH; Vũ Văn Ninh
- Ủy ban TC-NS của QH;
- Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp;
- VPCP:BTCN, các PCN;
- Lưu: VT, XDPL. (đã ký)