I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, Quyết định của Tòa án, …chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”. Ngoài quy định của Hiến pháp năm 1992, tại Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chin Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2004) và Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 48/NQ-TW), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW) cũng đã đề cao tầm quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Với nhiệm vụ thể chế đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào hệ thống pháp luật, tại kỳ họp thứ 5 ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật THADS.
Luật THADS là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động THADS, đã kế thừa, phát triển và pháp điển hóa được các quy định về THADS trước đó phù hợp, tiến độ, đồng thời tham khảo có chọn lọc các quy định của các nước về vấn đề này. Một trong những nội dung mới của Luật THADS là quy định rõ ràng hơn về trình tự, thủ tục THADS, thời hiệu yêu cầu thi hành án (THA), phí THA, vấn đề xác minh trong THADS,…Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS (được sửa đổi bổ sung năm 2014) cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập trong đó có vấn đề xác minh trong THADS nên cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Xuất phát từ lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Anh/chị hãy phân tích một tình huống cụ thể về xác minh trong thi hành án dân sự. Qua tình huống thực tế này, anh/chị hãy đánh giá các quy định của pháp luật và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xác minh trong thi hành án dân sự”.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về xác minh trong THADS, qua việc phân tích một tình huống cụ thể về xác minh trong thi hành án dân sự sẽ tiến hành đánh giá các quy định của pháp luật và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xác minh trong THADS.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật THADS hiện hành về xác minh trong THADS.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng những quy định của pháp luật THADS về xác minh trong THADS để thấy được những mặt tích cực, mặt hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định này qua tình huống cụ thể minh họa.
- Tìm ra những nguyên nhân của mặt hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định này, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định pháp luật THADS về xác minh trong THADS.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là qua tình huống minh họa cụ thể, tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật THADS hiện hành về xác minh trong THADS; phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng những quy định của pháp luật THADS về xác minh trong THADS để tìm ra những nguyên nhân của mặt hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định này, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định pháp luật THADS về xác minh trong THADS.
3. Cơ cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì nội dung của tiểu luận gồm 3 phần:
- Những quy định của pháp luật về xác minh trong THADS.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác minh trong THADS và tình huống minh họa
- Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với vấn đề về xác minh trong THADS.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Những quy định của pháp luật về xác minh trong THADS
Cho đến nay, vấn đề xác minh điều kiện thi hành án đã được sửa đổi, bổ sung cơ bản toàn diện trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (sau đây gọi tắt là Nghị định 62/NĐ-CP); Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC).
1.1. Luật Thi hành án dân sự
Điều 44 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về xác minh điều kiện thi hành án, cụ thể về thời hạn xác minh: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình.”.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 44 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn quy định: “Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.”.
Như vậy, đã có những quy định cụ thể về việc bắt buộc Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án, liên quan đến xác minh trong trường hợp người được thi hành án làm đơn yêu cầu thi hành án Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định mới về việc người làm đơn yêu cầu thi hành án không bắt buộc phải tự mình xác minh để chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là việc của Chấp hành viên, đây là điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án vì thực tế việc xác minh của người được thi hành án, đặc biệt là xác minh những tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án gặp không ít những khó khăn do tâm lý e ngại của các cơ quan chức năng khi cung cấp thông tin, bởi các thông tin liên quan đến tài sản của cá nhân không phải bất kỳ ai muốn là cơ quan chức năng có thể cung cấp, việc giao nhiệm vụ xác minh cho Chấp hành viên đối với những vụ theo đơn yêu cầu là hợp lý vì xác minh là một trong những hoạt động bắt buộc phải làm của Chấp hành viên trong việc giải quyết án, cơ quan thi hành án sẽ có những thuận lợi trong việc phối hợp với cơ quan chức năng để thu thập thông tin, đặc biệt là các thông tin liên quan đến tài sản đăng ký quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, một trong những tiêu chí xác định người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án hay không. Từ đó tạo điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án. Đặc biệt còn quy định chi tiết về thời hạn xác minh đối với trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, đang chấp hành hình phạt tù hoặc không xác định được địa chỉ cư trú mới. Đây là điểm mới so với Luật THADS năm 2008 về xác minh điều kiện thi hành án. Điểm mới nữa là sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn không có điều kiện thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người được thi hành án biết kết quả xác minh, việc xác minh chỉ được thực hiện khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Quy định này đã quy định chi tiết trách nhiệm xác minh của Chấp hành viên và hướng giải quyết đối với những án theo đơn yêu cầu trong trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án.
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn có quy định mới về tăng thêm quyền của cơ quan THADS là có thể ủy quyền cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện thi hành án. Đây là điểm mới rất tiến bộ và phù hợp với thực tiễn, quy định này giúp giảm tải được rất nhiều chi phí cho hoạt động xác minh điều kiện thi hành án.
Tại khoản 4 Điều 44 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên khi tiến hành xác minh như:
“a) Xuất trình thẻ Chấp hành viên;
b) Xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó;
c) Trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác;
d) Trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án;
đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh trong trường hợp cần thiết;
e) Lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh.”
Quy định này làm tăng thêm thẩm quyền và trách nhiệm của Chấp hành viên trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác thi hành án của Chấp hành viên.
Khoản 6 , 7 Điều 44 THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
“a) Cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp;
b) Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay;
c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
7. Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.”
Như vậy, với quy định này, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định cụ thể trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan đến hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và trách nhiệm cung cấp thông tin và thông tin cung cấp phải đúng sự thật, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Với quy định này đã tạo thuận lợi cho Chấp hành viên trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
Luật THADs được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã dành riêng Điều 44a quy định về việc xác định chưa có điều kiện thi hành án, người phải thi hành án khi thuộc trường hợp quy định tại điều này thì thủ trưởng cơ quan Thi hành án sẽ ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Đây là quy định mới, là tiêu chí giúp Chấp hành viên xác định và phân loại chính xác điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
1.2. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/NĐ-CP)
Tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định về xác minh điều kiện thi hành án:
“1. Khi tiến hành xác minh, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành án về việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án.
Trường hợp người phải thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp cần làm rõ thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của người phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có thông tin trên.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan thi hành án dân sự phải thể hiện bằng văn bản, nêu rõ bên ủy quyền, bên nhận ủy quyền, nội dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy quyền phải trả lời bằng văn bản kết quả xác minh và những nội dung cần thiết khác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền xác minh.
Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là 30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp việc xác minh tài sản khó khăn, phức tạp thì thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
3. Trường hợp chưa xác định được địa chỉ và tài sản của người phải thi hành án hoặc chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án mà theo bản án, quyết định họ phải tự mình thực hiện nghĩa vụ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án phải ghi rõ việc thi hành án bị hoãn theo Điểm b Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh.
Sau khi có quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án.
5. Cơ quan thi hành án dân sự chuyển sang sổ theo dõi riêng đối với việc chưa có điều kiện thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi có đủ các điều kiện sau:
a) Đã hết thời hạn 02 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án hoặc đã hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án;
b) Đã xác minh ít nhất hai lần theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự;
c) Không có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
6. Trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều này, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc thi hành án.”.
1.3. Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định về xác minh điều kiện thi hành án:
“1. Việc xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên căn cứ vào một trong các giấy tờ sau: hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng cho, giấy chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản hoặc thông qua chủ sở hữu, chính quyền địa phương, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng hoặc người làm chứng như xác nhận của người bán, của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng về việc mua bán tài sản.
2. Đối với trường hợp đình chỉ thi hành án do người được thi hành án chết mà không có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thi hành án. Kết quả xác minh thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương để người có quyền, nghĩa vụ liên quan biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo công khai hợp lệ mà không có người khiếu nại thì được coi là có căn cứ đình chỉ thi hành án.”
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác minh trong THADS và tình huống minh họa
Qua thực tiễn quá trình công tác, có thể đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về xác minh trong THADS như sau:
2.1. Những mặt đạt được
2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về xác minh điều kiện thi hành án dân sự đã được xây dựng tương đối đầy đủ
Như trên đã cập nhật, từ chỗ chưa có quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, đến nay vấn đề xác minh điều kiện THADS đã được “luật hóa”, các văn bản hướng dẫn thi hành tương đối cụ thể.
2.1.2. Các quy định pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án tạo điều kiện thuận lợi cho người được thi hành án
Theo Điều 44 Luật THADS năm 2008 thì người được thi hành án có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu cơ quan THADS tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh không có kết quả và phải chịu chi phí xác minh. Tại Luật THADS sửa đổi, bổ sung, Điều 44 quy định về xác minh điều kiện thi hành án, theo đó: đã bỏ nghĩa vụ của người được thi hành án trong việc phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, chuyển hóa thành quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án; bỏ nghĩa vụ phải nộp chi phí xác minh. Như vậy, việc xác minh điều kiện thi hành án theo Luật sửa đổi, bổ sung là thuộc về trách nhiệm của Chấp hành viên, chi phí xác minh do Ngân sách Nhà nước chịu. Để khuyến khích người được thi hành án tích cực, chủ động trong việc cung cấp thông tin, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhà nước sẽ miễn, giảm phí thi hành án. Khi người được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện về tài sản của người phải thi hành án mà cơ quan thi hành án có thể thể tiến hành xử lý tài sản đó để đảm bảo việc thi hành án thì họ sẽ được miễn, giảm phí thi hành án tương ứng với số tiền hoặc tài sản thu được từ thông tin mà họ cung cấp cho cơ quan thi hành án.
2.1.3. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể hơn, khắc phục được cơ bản các bất cập trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
- Về thời điểm xác minh thi hành án:
Trước đây, theo Khoản 2 Điều 44 Luật THADS năm 2008 thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh.
Theo Điều 36 Luật THADS năm 2008, sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án có 05 ngày làm việc để ra quyết định thi hành án, sau khi ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án có 02 ngày làm việc để phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành. Thực tiễn cho thấy thường khi nhận đơn yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án cũng nhận được đơn yêu cầu xác minh của người được thi hành án vào cùng thời điểm. Nếu theo quy định nêu trên thì Chấp hành viên chỉ còn 01 ngày để tiến hành xác minh điều kiện thi hành án, điều này dẫn đến Chấp hành viên có thể vi phạm thời hạn xác minh theo quy định. Hơn nữa, việc tính thời hạn xác minh kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu xác minh của người được thi hành án cũng bất cập với quy định về thời hạn tự nguyện thi hành án theo Điều 45 Luật THADS năm 2008 là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Do đó, nếu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án trước khi người phải thi hành án tự nguyện thi hành; sau đó, người phải thi hành án lại thi hành án xong trong thời gian tự nguyện thi hành thì việc xác minh của Chấp hành viên là thừa, không cần thiết, lãng phí.
Khắc phục bất cập này, Khoản 1 Điều 44 Luật sửa đổi, bổ sung đã xác định rất rõ thời hạn Chấp hành viên phải tiến hành xác minh: cụ thể là trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay. Quy định này thể hiện sự tôn trọng quyền tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án, tạo điều kiện cho Chấp hành viên có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tiến hành việc xác minh hiệu quả hơn.
- Về trách nhiệm xác nhận biên bản xác minh:
Vấn đề này đã có sự thống nhất, hợp lý hơn quy định trước đây. Theo khoản 2 Điều 44 Luật THADS năm 2008 thì biên bản xác minh có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Quy định này dẫn đến việc nhiều cơ quan thi hành án hiểu rằng biên bản xác minh như trên phải bao gồm xác nhận của tất cả các cá nhân, cơ quan kể trên. Vậy là 01 biên bản xác minh phải đóng đến 03 loại dấu (dấu của cơ quan thi hành án, Ủy ban nhân dân và Công an xã), chưa kể chữ ký của Tổ trưởng Tổ dân phố, công chức Tư pháp xã,,... dẫn đến rườm rà, không cần thiết. Mặt khác, chức danh “tổ trưởng tổ dân phố” chỉ có ở thành phố, đô thị, còn ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa được gọi là trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng bản,...nên việc áp dụng không thống nhất: ở đô thị thì chức danh trên phải ký vào biên bản xác minh, còn ở nông thôn những chức danh tương tự không phải ký.
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định rõ biên bản xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh. Có thể nói đây là một quy định hợp lý, thống nhất trong cách hiểu và áp dụng trên thực tế.
- Về ủy quyền xác minh thi hành án:
Khoản 3 Điều 44 Luật THADS đã được sửa đổi, bổ sung quy định việc cơ quan THADS có thể ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án dân sự. Đây là một điểm mới hoàn toàn so với quy định về xác minh trước đây, góp phần giúp cho chế định ủy thác thi hành án được thuận lợi hơn. Theo quy định tại Điều 55 Luật THADS về ủy thác, căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự ủy thác cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Trong nhiều trường hợp, cơ quan thi hành án không chỉ căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án mà còn căn cứ vào biên bản xác minh của Chấp hành viên. Do đó, để xác minh được người phải thi hành án có đúng là chuyển về sinh sống tại địa phương đó hoặc tại địa phương đó có tài sản, hoặc là nơi làm việc của người phải thi hành án thì Chấp hành viên cũng cần phải xác minh tại địa phương khác, tránh trường hợp chỉ xác minh tại Ủy ban nhân dân thuộc địa phương mình cho biết đương sự đã chuyển hộ khẩu về địa phương khác mà đã ủy thác ngay dẫn đến khi cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác sau khi thụ lý xong, tiến hành xác minh thì được biết đương sự hoàn toàn không chuyển về sinh sống tại địa phương, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, hồ sơ ủy thác đi và trả lại nhiều lần dẫn đến việc thi hành án tồn đọng, kéo dài. Mặt khác, nếu Chấp hành viên phải đi đến địa phương khác xác minh thì chi phí xác minh chưa được quy định rõ, hoặc nếu không nhận được sự phối hợp, ủng hộ của cơ quan thi hành án hoặc cơ quan liên quan tại địa phương khác thì việc xác minh của Chấp hành viên rất khó khăn. Chính vì vậy, quy định ủy quyền xác minh sẽ phần nào tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho Chấp hành viên trước khi tiến hành ủy thác thi hành án.
2.1.4. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh thi hành án
Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án, đó là trách nhiệm cung cấp thông tin cho Chấp hành viên trong thời hạn nhất định và phải chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin đó.
2.2. Những mặt hạn chế
2.2.1. Về cơ sở pháp lý
- Chưa có chế tài đủ mạnh, phù hợp mang tính bắt buộc đối với các trường hợp cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi không cung cấp thông tin, xác nhận tài sản. Hiện mới chỉ có Nghị định số: 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không cung cấp thông tin nếu không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, trong thực tiễn để xử phạt hành vi này quả thực không dễ dàng bởi nó sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp trong công tác THADS. Vì vậy, việc cung cấp thông tin vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức, mức độ tự nguyện của cơ quan nắm giữ thông tin.
- Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng xác minh tài sản là quyền của người được thi hành án, chứ không phải nghĩa vụ của họ, mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về chấp hành viên. Quy định này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho người được thi hành án nhưng nhiều trường hợp lại là “gánh nặng” cho chấp hành viên.
- Các văn bản quy định xác minh điều kiện thi hành án còn tập trung nhiều ở việc quy định trình tự, thủ tục mà chưa có nhiều quy định cụ thể về nội dung xác minh.
- Khoản 1 Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định: “Khi tiến hành xác minh, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án,…Chấp hành viên phải nêu rõ trong việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án”. Quy định này có hai bất cập: Thứ nhất, khi xác minh nhất thiết trong mọi trường hợp Chấp hành viên phải gặp được người phải thi hành án mới lập được biên bản xác minh. Thứ hai, chờ việc kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án từ người phải thi hành án nhiều khi như là một quy định mang tính hình thức.
2.2.2. Về mặt thực tiễn
- Việc thanh toán trong nhân dân chủ yếu dùng tiền mặt nên dẫn đến khó khăn rất lớn trong việc xác minh tài sản, thu nhập của người phải thi hành án. Trong trường hợp người phải thi hành án không thực hiện giao dịch qua tài khoản mà tích trữ, lưu thông bằng tiền mặt thì việc xác minh khó thực hiện, chính xác.
- Các giao dịch mua bán, chuyển nhượng đối với các tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu trên thực tế không kiểm soát được nên chấp hành viên cũng rất khó xác minh.
- Hệ thống đăng ký quản lý tài sản, cơ chế kiểm soát tình trạng vốn, tài sản thu nhập của doanh nghiệp còn rất yếu, việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp thông qua hệ thống tài khoản ở ngân hàng còn chưa hiệu quả nên việc xác minh tài sản trong nhiều trường hợp còn hết sức khó khăn.
- Trường hợp người phải thi hành án là thành viên góp vốn vào doanh nghiệp: Luật THADS đã quy định rõ chấp hành viên có quyền kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án, đồng thời cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin nơi nhận góp vốn của người phải thi hành án. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này vào thực tiễn, chấp hành viên đã gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong việc xác định phần giá trị vốn góp và biện pháp kê biên xử lý phần vốn góp. Một phần do các loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi thành lập đã không có sự thỏa thuận rõ ràng về cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, mức góp vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, cơ chế kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là để xác định phần vốn góp thực tế của các thành viên trong công ty yêu cầu nhiều tài liệu pháp lý khác nhau mà chấp hành viên khó thu thập như: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; điều lệ công ty; giấy chứng nhận góp vốn, cổ phiếu; sổ đăng ký thành viên, sổ đăng ký cổ đông; báo cáo tài chính doanh nghiệp, sổ sách kế toán doanh nghiệp; các chứng từ khác về việc góp vốn, phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Khó khăn trong phối hợp cung cấp thông tin:
Trường hợp xác minh tiền trong tài khoản của người phải thi hành án: Thực tế ngân hàng và các tổ chức tín dụng luôn bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình theo quy chế của ngành. Vì vậy, không ít trường hợp, nhân viên ngân hàng, tín dụng hướng dẫn cho khách hàng là người phải thi hành án chuyển hoặc rút hết tiền trong tài khoản khi biết được chấp hành viên đến xác minh.
Trường hợp xác minh điều kiện thi hành án đối với tài sản là bất động sản thì một số cơ quan thi hành án dân sự còn gặp khó khăn khi yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai như cơ quan tài nguyên môi trường, cơ quan quy hoạch đô thị,…cung cấp tài liệu, trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính…
- Kết quả xác minh phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, kỹ năng của Chấp hành viên, nhất là những vụ việc liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, kỹ thuật, công nghệ cao. Trong khi đó, am hiểu các lĩnh vực chuyên môn sâu của Chấp hành viên chưa thể đáp ứng yêu cầu: xác minh vốn trong doanh nghiệp, các tài sản là các thiết bị khoa học,…Mặc dù Luật THADS có quy định thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung xác minh nhưng thực tế việc thuê chuyên gia hết sức khó khăn, vướng mắc vì kinh phí eo hẹp.
- Xử lý kết quả xác minh điều kiện thi hành án:
Trường hợp tài sản lớn hơn rất nhiều nghĩa vụ thi hành án: Tại điều 44 a Luật sửa đổi, bổ sung quy định Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án. Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều trường hợp qua xác minh cho thấy tài sản của người phải thi hành án rất lớn, gấp nhiều lần so với nghĩa vụ của họ (ví dụ: có đất, nhà trong khi chỉ phải thi hành khoản tiền 200.000 đồng – 10.000.000 đồng). Trong trường hợp này, việc kê biên xử lý tài sản là không thuyết phục, trong khi xếp diện không có điều thi hành án thì không đúng mà xếp diện có điều kiện thi hành cũng khó xử lý.
- Xử lý trường hợp vật đặc định không còn: Tại khoản b điều 44 a quy định: “Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác”.
Tuy nhiên, theo khoản 2 điều 113 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, “Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó”. Như vậy, vật đặc định là vật duy nhất, không thể thay thế, trường hợp nó không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được thì xếp vào diện chưa có điều kiện thi hành án là chưa hợp lý, sẽ dẫn đến vụ việc tồn đọng, không có hướng xử lý.
2.3. Tình huống minh họa và phân tích tình huống
Theo nội dung Bản án số 16/DSST ngày 28/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh B thì ông Nguyễn Văn Tình, trú tại thôn Tiêu Long, xã Tương Giang, huyện A, tỉnh B bị Tòa án tuyên buộc ông Nguyễn Văn Tình phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền gốc là 21.437.651 đồng và tiền lãi tính đến ngày 28/9/2016 là 35.397.120 đồng. Tổng số tiền gốc và lãi là 56.834.771 đồng.
Ông Nguyễn Văn Tình còn phải có trách nhiệm thanh toán lãi phát sinh từ ngày 29/9/2016 cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất quy định tại hợp đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Văn Tình phải chịu 2.842.000 đồng.
Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền 1.185.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 02723 ngày 08/7/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A – tỉnh B.
Ngày 10/01/2017, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh B đã ra 02 Quyết định thi hành án: Quyết định thi hành án chủ động số: 200/QĐ-CCTHADS và Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số: 22/QĐ-CCTHADS theo đúng nội dung Bản án đã có hiệu lực pháp luật trên.
Trong quá trình giải quyết vụ việc, Chấp hành viên được phân công trực tiếp tổ chức thi hành vụ việc trên đã tiến hành các thủ tục tống đạt văn bản theo quy định. Hết thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng ông Tình không tự nguyện thi hành, Chấp hành viên đã giao cho Thư ký giúp việc tiến hành thủ tục xác minh điều kiện thi hành án của ông Nguyễn Văn Tình. Theo nội dung Biên bản về việc xác minh điều kiện thi hành án ngày 27/01/2017 có ghi, theo lời trình bày của ông Nguyễn Đình Thảo – Trưởng thôn Tiêu Long cung cấp có chữ ký, xác nhận của Tư pháp xã và lãnh đạo xã Tương Giang thì hiện nay ông Nguyễn Văn Tình cùng vợ và hai con sinh sống trên nhà đất của bố mẹ đẻ ông Tình là ông Nguyên Văn Lý và bà Lê Thị Mai. Ông Tình không có nghề nghiệp, không có thu nhập gì, sống phụ thuộc vào gia đình. Tại địa phương, ông Tình không có bất kỳ tài sản gì để đảm bảo thi hành án, điều kiện để thi hành án của ông Tình là chưa có.
Chấp hành viên đã căn cứ vào biên bản xác minh điều kiện thi hành án mà Thư ký cung cấp, Chấp hành viên đã đề xuất Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện A ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với 02 Quyết định thi hành án trên.
Khi kiểm tra hồ sơ trên, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Từ Sơn nhận thấy, kết quả xác minh còn thiếu chính xác và chưa đầy đủ, còn thiếu sự tham gia của công chức địa chính xã trong biên bản xác minh. Vì bản thân ông trưởng thôn và công chức Tư pháp không thể cung cấp được thông tin ông Tình có nhà đất ở địa phương hay không. Nên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án huyện A đã yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh lại.
Kết quả xác minh ngày 30/1/2017, với sự tham gia của Phó chủ tịch UBND xã Tương Giang, công chức địa chính, công chức Tư pháp, trưởng thôn Tiêu Long thì hiện nay ông Nguyễn Văn Tình cùng bố mẹ đẻ là ông Nguyên Văn Lý và bà Lê Thị Mai, cùng vợ và hai con có đăng ký thường trú và đang sinh sống tại thôn Tiêu Long, xã Tương Giang, huyện A, tỉnh B.
Về tài sản: ông Nguyễn Văn Tình đã được Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đối với thửa đất số 01, tờ bản đổ số 02, diện tích 150m2 tại thôn Tiêu Long, xã Tương Giang, huyện A, tỉnh B, nguồn gốc thửa đất là do ông Nguyên Văn Lý và bà Lê Thị Mai (bố mẹ đẻ ông Tình cho ông Nguyễn Văn Tình) ngày 26/9/2016. Hiện tài sản trên không có tranh chấp gì. Ngoài tài sản trên thì ở địa phương ông Nguyễn Văn Tình không đứng tên bất kỳ một tài sản gì khác.
Chấp hành viên cùng chính quyền địa phương tiến hành xác minh thực tế tại thửa đất số 01, tờ bản đổ số 02, diện tích 150m2 tại thôn Tiêu Long, xã Tương Giang, huyện A, tỉnh B thấy: có 01 ngôi nhà cấp 4 có diện tích khoảng 60 m2, ông Nguyễn Văn Tình cùng bố mẹ đẻ ông Tình, vợ và hai con đang sinh sống trên thửa đất này. Ông Nguyễn Văn Tình không có nghề nghiệp, không có thu nhập gì. Nguồn thu nhập của gia đình sống chủ yếu bằng việc làm thuê của vợ ông Tình và hai con của ông Tình. Ngoài đồ dùng sinh hoạt phục vụ cuộc sống tối thiểu hàng này, thì ông Nguyễn Văn Tình không có bất kỳ tài sản gì khác có giá trị để đảm bảo thi hành án.
Chấp hành viên đã tiến hành trao đổi với chính quyền địa phương về nội dung Biên bản xác minh ngày 27/01/2017 thì lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Tương Giang cho biết: do không để ý nội dung biên bản xác minh mà Thư ký thi hành án đã viết sẵn có xác nhận của trưởng thôn và công chức Tư pháp nên ông ký xác nhận vào, thực tế thì chính quyền địa phương cũng không trực tiếp đến gia đình ông Nguyễn Văn Tình để tiến hành xác minh.
Qua tình huống nêu trên, cho thấy đối với thư ký được Chấp hành viên thụ lý hồ sơ phân công thực hiện việc xác minh đã không tôn trọng và thực hiện đúng các nguyên tắc khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án: trực tiếp xác minh và phải kịp thời, chính xác và đầy đủ.
- Nguyên tắc trực tiếp xác minh:
Xác minh là “Làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể”. Muốn vậy, đòi hòi Chấp hành viên và thư ký phải trực tiếp xác minh làm rõ và cụ thể về điều kiện thi hành án của đương sự (có điều kiện hay chưa có điều kiện). Có hoặc không có điều kiện thi hành án thể hiện các thông tin về tài sản hoặc quyền về tài sản mà cụ thể là thu nhập, tài sản là động sản hoặc bất động sản, số dư trong tài khoản. Trực tiếp xác minh đối với Chấp hành viên và thư ký còn thể hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên được quy định tại khoản 4, điều 20 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014: “Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án”.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên và thư ký được chấp hành viên phân công thực hiện việc xác minh, là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực hoặc chưa có hiệu lực của các cấp Tòa án nhân dân, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại và bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định trọng tài nước ngoài được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định. Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả thi hành của hồ sơ thi hành án đã được Thủ trưởng cơ quan thi hành án giao cho. Trong khi đó kết quả thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xác minh; kết quả xác minh có chính xác, đầy đủ kịp thời giúp chấp hành viên giải quyết hồ sơ đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của các bên thi hành án. Đây chính là yêu cầu từ thực tiễn đặt ra cho chấp hành viên, thư ký thi hành án phải trực tiếp xác minh.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, căn cứ vào tính chất của mỗi vụ việc chấp hành viên, thư ký thi hành án phải trực tiếp xác minh để có các biện pháp áp dụng kịp thời, hiệu quả và đúng pháp luật.
Trong đa số trường hợp thì Chấp hành viên đều phải xác minh trực tiếp. Việc xác minh trực tiếp đòi hỏi Chấp hành viên phải xác minh cụ thể hiện trạng tài sản, điều kiện kinh tế, thu nhập của người phải thi hành án, không chỉ căn cứ vào nội dung trình bày của đương sư hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Xác minh trực tiếp, cụ thể là vô cùng quan trọng bởi lẽ Chấp hành viên sẽ khó mà quyết định được việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nào hoặc sẽ kê biên tài sản nào nếu tài sản được xác minh thuộc quyền sở hữu riêng hay sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, tài sản là động sản hay tài sản là bất động sản của người phải thi hành án hoặc khi đã kê biên tài sản chung của người phải thi hành án Chấp hành viên sẽ kê biên toàn bộ hay chỉ kê biên phần tài sản có giá trị tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án.
Đây vừa là yêu cầu và cần thiết để Chấp hành viện thực hiện quyền của mình, tạo nên một phong cách làm việc nghiêm túc, chuyên nghiệp, tạo sự tin tưởng cho người cung cấp thông tin.
- Nguyên tắc xác minh phải kịp thời, chính xác và đầy đủ
Tính kịp thời ở đây thể hiện sự đúng lúc, không chậm trễ của việc xác minh. Khi có được thông tin về tài sản, Chấp hành viên, thư ký thi hành án phải kịp thời xác minh, có như vậy mới ngăn chặn kịp thời những hành vi tẩu tán tài sản của đương sự, nhất là tài khoản hoặc động sản.
Mặt khác, tính kịp thời còn thể hiện sự tuân thủ pháp luật của Chấp hành viên đã được quy định tại khoản 1, Điều 44 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 có sự thay đổi về thời điểm xác minh: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
Tính kịp thời, đầy đủ còn thể hiện ở chỗ, theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì: “Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình.”. Vấn đề này được làm rõ tại Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành án về việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án.
Tính chính xác và đầy đủ là một yêu cầu của một biên bản xác minh và quá trình tác nghiệp của một hồ sơ. Sự chính xác và đầy đủ ở đây không phải là số lượng, trọng lượng,…mà chính là hàm lượng thông tin được thể hiện bằng ngôn ngữ pháp luật qua kết quả xác minh. Thông qua các thông tin chính xác và đầy đủ giúp ít rất nhiều cho chấp hành viên khi áp dụng các biện pháp thi hành án (thỏa thuận, tự nguyện hay cưỡng chế). Đặc biệt, tính chính xác của kết quả xác minh giúp Chấp hành viên trong việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế sát tình hình vụ việc, dự liệu các tình huống có thể xảy ra trong khi cưỡng chế gần với thực tiễn, từ đó Chấp hành viên có thể chủ động trước các tình huống có thể xảy ra.
Mỗi biên bản xác minh rất cần sự chính xác và đầy đủ cả hình thức (mẫu biên bản xác minh, chữ ký, dấu), có những vụ việc chỉ cần một biên bản xác minh là giải quyết được hồ sơ, nhưng cũng có hồ sơ phải có rất nhiều biên bản xác minh mới giúp chấp hành viên có đủ cơ sở để giải quyết hồ sơ đúng quy định pháp luật. Tính chính xác và đầy đủ của công tác xác minh đòi hỏi Chấp hành viên phải luôn trăn trở để tìm ra những câu trả lời một cách xác đáng đối với những vụ việc cụ thể. Kết quả xác minh phải tránh việc thiếu chính xác và không đầy đủ.
Đối với tình huống trên thấy, Thư ký thi hành án chưa nắm chắc được những quy định của pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án, không đảm bảo thực hiện được các nguyên tắc và yêu cầu khi tiến hành xác minh thi hành án: phải trực tiếp xác minh; xác minh kịp thời, chính xác và đầy đủ. Không thực hiện việc tìm kiếm, thu thập những thông tin thông qua nội dung bản án, người thân của người phải thi hành án và trực tiếp tìm kiếm, thu thập những thông tin tại địa phương nơi sinh sống, nơi có tài sản của người phải thi hành án để có được những thông tin cần thiết cho việc thực hiện tác nghiệp của Chấp hành viên trong quá trình giải quyết vụ việc. Thư ký vụ việc chỉ dựa vào những thông tin doTrưởng thôn cung cấp và nhờ sự xác nhận tính xác thực tại địa phương khi không trực tiếp đến xác minh, không thực hiện việc xác minh qua địa chính xã – nơi bước đầu cung cấp được thông tin nhà, đất của người phải thi hành án chính xác. Nội dung biên bản xác minh chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu của việc xác minh điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên khi tiến hành xác minh như:
“…b) Xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó;…
e) Lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh.” .
Đối chiếu những nguyên tắc khi tiến hành xác minh áp dụng đối với tình huống trên ta thấy, đối với chấp hành viên phân công giải quyết vụ việc thì chưa có sự hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể đối với thư ký khi tác nghiệp về việc ghi biên bản xác minh, cũng như việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc sử dụng và thực hiện đúng các quy định pháp luật đối với các thông tin cần xác minh và làm căn cứ thực hiện những tác nghiệp giải quyết hồ sơ sau này.
Trong bản án của tòa án (sơ thẩm, phúc thẩm) chứa đựng rất nhiều thông tin để Chấp hành viên và thư ký thi hành án bước đầu khai thác có hiệu quả thông tin đó. Khai thác đây là loại việc gì (hình sự, dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao đồng hay hành chính) để hình dung ra loại tội phạm hay tranh chấp, trên cơ sở các đặc thù riêng của từng loại vụ việc để tập trung khai thác những thông tin gì phục vụ việc giải quyết hồ sơ sau này. Đồi với vụ án dân sự, xem xét đó là tranh chấp gì, ở đâu, đặc biệt là các căn cứ mà Hội đồng xét xử áp dụng, những lập luận, lý giải của tòa án chấp nhận hay không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Thông tin từ bản án là bước đầu giúp xây dựng hình dung được các đương sự thi hành án (người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), đó là người nam hay nữ (giới tính), già hay trẻ (độ tuổi), ở đâu (quê quán), có vợ hay chồng chưa (gia đình),…Việc nắm chắc hồ sơ thi hành án, nhất là nội dung bản án như đã phân tích thì sẽ đạt được hiệu quả xác minh rất cao. Nhưng thực tế, không ít Chấp hành viên, thư ký thi hành án không nắm chắc hồ sơ, xem nhẹ các thông tin qua bản án dẫn đến kết quả xác minh không cụ thể, quá chung chung.
3. Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với vấn đề về xác minh trong THADS
3.1. Nguyên nhân
- Một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác THADS hiện nay có năng lực, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, ý thức trách nhiệm chưa cao, chưa chủ động, không tập trung trong quá trình giải quyết vụ việc, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, còn yếu kém, sa sút về phẩm chất đạo đức.
- Công tác tổ chức cán bộ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý ngành, công tác quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ, công chức theo đúng chức năng và vị trí việc làm, chưa kịp thời và đạt được hiệu quả cao để thực hiện nhiệm vụ.
- Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành mặc dù có tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa xứng tầm; lãnh đạo một số đơn vị còn thiếu quyết liệt, sâu sát, chưa thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ; chưa chủ động trong việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ mà chủ yếu là giải quyết những vấn đề theo yêu cầu của cấp dưới.
- Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là công tác tự kiểm tra, chưa phát huy tốt vai trò là công cụ phục vụ cho quản lý, điều hành. Một số địa phương chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng cũng như triển khai việc thực hiện các Quy chế nội bộ, Quy chế phối hợp,,…trong công tác THADS. Một số cơ quan THADS địa phương chưa thật sự khẳng định được vị thế, niềm tin để có thể tranh thủ tốt hơn sự quan tâm của cấp Ủy và địa phương đối với công tác THADS. Số lượng công việc, tính chất công việc thi hánh án hết sức phức tạp, chịu nhiều áp lực, không hấp dẫn và thu hút được nhiều người vào công tác trong ngành; ý thức trách nhiệm trong công việc và đặc biệt là trong công tác xác minh điều kiện thi hành án.
3.2. Giải pháp, kiến nghị
3.2.1. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS
- Về pháp luật thi hành án dân sự
Cần nghiên cứu quy định trong một số loại vụ việc thì xác minh điều kiện thi hành án là nghĩa vụ của Chấp hành viên như Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 như án chủ động, án bồi thường, hôn nhân,…; nhưng một số trường hợp nên quy định là trách nhiệm của người được thi hành án như Luật THADS năm 2008 như án tín dụng, ngân hàng, án lừa đảo, trả nợ,….nhằm tăng trách nhiệm của người được thi hành án và giảm bớt gánh nặng của Chấp hành viên, góp phần giảm án tồn đọng hàng năm.
Cần quy định cụ thể hơn về nội dung xác minh thi hành án. Đối với quy định yêu cầu người phải thi hành kê khai tài sản, nên quy định bắt buộc ở một số trường hợp nhất định, còn lại là khuyến khích đối với chấp hành viên. Đồng thời phải có biện pháp chế tài cụ thể đối với trường hợp không kê khai hoặc kê khai tài sản không đúng.
Nghiên cứu để có bổ sung thêm trường hợp không có điều kiện thi hành án là tài sản lớn gấp (mấy lần?) đối với nghĩa vụ? bỏ trường hợp không có điều kiện thi hành khi vật đặc định không còn. Bổ sung thêm quy định chưa có điều kiện thi hành án đối với trường hợp người phải thi hành án có tài sản là vật không thể tách rời có giá trị chênh lệch quá lớn so với nghĩa vụ thi hành án.
Để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc cung cấp thông tin mà mình đang nắm giữ và phối hợp tốt trong hoạt động THADS thì cần có quy định rõ hơn, cụ thể hơn, mạnh hơn về chế tài xử lý đối với trường hợp chưa phối hợp.
Trong quy định của ngành Ngân hàng, cần quy định ngân hàng có trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin khách hàng, trừ trường hợp khách hàng là người phải thi hành án thì ngân hàng có trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản của người phải thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các văn phòng Thừa phát lại và cơ quan THADS trong tổ chức THADS, sử dụng kết quả xác minh điều kiện thi hành án do Thừa phát lại cung cấp nhằm giảm tải gánh nặng cho Chấp hành viên trong xác minh điều kiện thi hành án.
- Pháp luật về tài chính, ngân hàng, dân sự cần có quy định mở rộng phạm vi các giao dịch phải thông qua tài khoản, hạn chế sử dụng tiền mặt trong nhân dân.
- Quy định đồng bộ việc kê khai, đăng ký tài sản, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký tài sản để sử dụng cho việc tra cứu, cung cấp thông tin tài sản.
- Cần có quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế kiểm soát nguồn thu nhập, tài sản của người phải thi hành án thông qua việc đăng ký, kê khai tài sản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác minh tài sản.
3.2.2. Các kiến nghị, đề xuất
- Kính đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự:
Thường xuyên tổ chức các hội nghị tập huấn chuyên sâu về xác minh điều kiện thi hành án cho Chấp hành viên và Thư ký thi hành án;
Quan tâm việc kịp thời cấp thẻ, đổi thẻ Chấp hành viên và công chức khác để thuận lợi trong quá trình tác nghiệp hoặc trong trường hợp mới được bổ nhiệm hoặc có thay đổi đơn vị công tác.
- Kính đề nghị UBND tỉnh:
Quan tâm, chỉ đạo các cơ quan liên quan như cơ quan đất đai, Ngân hàng nhà nước,…phối hợp chặt chẽ, cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho cơ quan THADS khi có yêu cầu.
Có giải pháp chấn chỉnh công tác quản lý nhân, hộ khẩu đối với người lao động tự do, vắng mặt trong một thời gian dài nhưng không khai báo trên địa tỉnh/.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Xác minh điều kiện THADS là việc chấp hành viên thu thập thông tin, tiếp cận, xác định đối tượng mục tiêu cần phải thi hành (tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án như: nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải thi hành án,…Đây là hoạt động trung tâm, quan trọng nhất trong quá trình tổ chức THADS. Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên thuyết phục đương sự tự nguyện, thỏa thuận thi hành án, là cơ sở để Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra các quyết định ủy thác, hoãn, đình chỉ thi hành án hay lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Có thể nói, xác minh điều kiện thi hành án chính là căn cứ làm phát sinh hàng loạt các tác nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định, đòi hỏi Chấp hành viên cần thiết phải nắm vững cơ sở pháp lý của việc xác minh, kỹ năng xác minh và xử lý kết quả xác minh phù hợp với quy định của pháp luật về THADS. Vì vậy, có thể khẳng định công tác xác minh thi hành án là một hoạt động có vị trí, vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động giải quyết án của Chấp hành viên.
Cập nhật bởi truonggiang1987 ngày 14/07/2017 10:44:56 SA
căn chỉnh lề