Bản án số:27/2007/KDTM-ST
Ngày: 22.3.2007
V/v tranh chấp giữa thành viên với pháp nhân
Trong ngày 22 tháng 3 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số24/2007/TLST-KDTM ngày 25 tháng 01 năm 2007 về Tranh chấp giữa thành viên với pháp nhân theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/07/KDTM/QĐXX-ST ngày 07 tháng 3 năm 2007 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1. Ông Phan Văn Bình - sinh năm 1945
Trú tại: 34H2 ngõ Giếng Mứt, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
2. Bà Nguyễn Thị Ngọ - sinh năm 1954
Trú tại: số 1B, ngõ 1, phố Lê Văn Hưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
Luật gia Nguyễn Thị Lợi - Hội luật gia Hà Nội
Bị đơn: Hợp tác xã thương mại Đại Đồng
Trụ sở: 58 Ngô Thì Nhậm, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
Ông Nguyễn Đức Hạnh - xã viên Hợp tác xã thương mại Đại Đồng - làm đại diện theo giấy uỷ quyền số 041UQ-ĐĐ ngày 19.3.2007 do chủ nhiệm Hợp tác xã ký.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
Luật sư Vi Văn A - Đoàn luật sư Hà Nội (Văn phòng luật sư số 19)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Bà Trần Thị Bích Ngọc - sinh năm 1958
Trú tại: 33 Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
2. Ông Nguyễn Văn Hùng - sinh năm 1948
Trú tại: số 7, phố 344, phường Đống Mác, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
3. Bà Hoàng Thị Nguyệt - sinh năm 1947
Trú tại: 42C phố Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
4. Ông Nghiêm Văn Vậy - sinh năm 1937
Trú tại: 58 Ngô Thì Nhậm, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Đều là xã viên Hợp tác xã thương mại Đại Đồng.
Ông Hùng vắng mặt phần tranh luận và tuyên án
Nhận thấy
Tại đơn khởi kiện ngày 24.10.2006, bổ sung ngày 14.11.2006 và tại các lời khai, ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ trình bày:
Các ông bà đều là xã viên của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng (có trụ sở tại 58 Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Bà Ngọ tham gia Hợp tác xã từ năm 1969, ông Bình tham gia từ năm 1981. Trong thời gian tham gia ông Bình được Hợp tác xã giao cửa hàng số 3, bà Ngọ được giao cửa hàng số 5 tại 65 Trần Xuân Soạn để hoạt động kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Hợp tác xã.
Ngày 04.7.2006, chủ nhiệm Hợp tác xã là ông Phan Văn Thoả thay mặt Ban Quản trị Hợp tác xã thương mại Đại Đồng ký quyết định thi hành kỷ luật số 04QĐ/HTX đối với ông Bình và số 05QĐ/HTX đối với bà Ngọ, bằng hình thức cảnh cáo với lý do các ông bà không nộp thuế cũng như làm nghĩa vụ tài chính đối với Hợp tác xã.
Đến ngày 11.9.2006, ông chủ nhiệm Hợp tác xã Phan Văn Thoả chủ trì Đại hội xã viên bất thường khai trừ các ông bà ra khỏi Hợp tác xã cũng với lý do trên và khiếu kiện lung tung. Tại cuộc họp chỉ có 4/19 xã viên biểu quyết tán thành việc khai trừ xã viên, nhưng ông chủ nhiệm Hợp tác xã vẫn thay mặt Ban Quản trị Hợp tác xã ra quyết định số 26/QĐ/HTX ngày 12.9.2006 để khai trừ bà Ngọ và quyết định số 27/QĐ/HTX ngày 12.9.2006 để khai trừ ông Bình ra khỏi Hợp tác xã. Thủ tục tiến hành đại hội Hợp tác xã làm không đúng theo pháp luật và điều lệ Hợp tác xã. Ông Bình, bà Ngọ có nhận được giấy mời họp đại hội xã viên bất thường nhưng chỉ nhận được trước ngày đại hội có 01 ngày và không thông báo trước nội dung cuộc họp.
Nay ông Bình, bà Ngọ khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết huỷ cuộc họp đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006, quyết định số 26 và 27 ngày 12.9.2006 của Hợp tác xã Đại Đồng đối với các ông bà, để các ông bà có điều kiện tiếp tục tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống gia đình.
Phía bị đơn - Hợp tác xã thương mại Đại Đồng trình bày:
Hợp tác xã thương mại Đại Đồng được thành lập từ năm 1958, đến ngày 11.9.2006 có 19 xã viên, trong đó có bà Nguyễn Thị Ngọ và ông Phan Văn Bình.
Ngày 11.9.2006, Hợp tác xã có tiến hành đại hội xã viên bất thường để khai trừ ông Bình, bà Ngọ ra khỏi Hợp tác xã, do ông Bình bà Ngọ không chấp hành nghị quyết và điều lệ Hợp tác xã.
Trước khi tiến hành đại hội, ngày 29.8.2006 Ban Chủ nhiệm và Ban Kiểm soát có tiến hành họp với các nội dung:
- Kiểm điểm đánh giá 07 tháng kinh doanh từ tháng 01 - tháng 7.2006 của Hợp tác xã.
- Phương hướng kinh doanh 06 tháng cuối năm 2006.
- Xét kỷ luật 02 xã viên trên.
Cuộc họp trên đã kết luận sẽ tổ chức đại hội xã viên cuối tháng 8.2006.
Sau đó, để thực hiện kết luận của Ban Chủ nhiệm và Ban Kiểm soát Hợp tác xã tại cuộc họp hai ban ngày 29.8.2006, ông Phan Văn Thoả - chủ nhiệm Hợp tác xã có ký "giấy mời" các xã viên "dự họp đại hội bất thường của Hợp tác xã" vào ngày 11.9.2006.
Giấy mời được gửi đến tận tay ông Bình, bà Ngọ vào ngày 10.9.2006 (trước ngày đại hội 01 ngày) như nguyên đơn trình bày. Không có tài liệu về nội dung chương trình đại hội.
Quá trình tiến hành đại hội, ông Thoả - chủ nhiệm Hợp tác xã chủ trì, công bố lý do đại hội gồm:
- Kiểm điểm kết quả hoạt động 06 tháng đầu năm 2006 và phương hướng 06 tháng cuối năm 2006.
- Công bố kỷ luật 02 xã viên Bình, Ngọ.
Việc biểu quyết khai trừ xã viên có 13/19 xã viên đồng ý với hình thức biểu quyết dơ tay tại đại hội, sau đó ký vào biên bản đại hội.
Nay Hợp tác xã khẳng định ông chủ nhiệm Hợp tác xã đã ra quyết định chấm dứt tư cách xã viên của ông Bình, bà Ngọ như vậy là thực hiện đúng theo kết luận của đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2007 và đại hội xã viên này đã được tổ chức đúng quy định của Luật Hợp tác xã và điều lệ Hợp tác xã thương mại Đại Đồng. Cá nhân chủ nhiệm Hợp tác xã không có thẩm quyền huỷ kết luận của đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 cũng như không có thẩm quyền huỷ quyết định chấm dứt tư cách xã viên số 26 và 27 ngày 12.9.2006 đối với ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ.
Tại phiên toà nguyên đơn giữ yêu cầu như đã nêu trong đơn khởi kiện là đề nghị Toà án tuyên huỷ kết quả đại hội xã viên bất thường 11.9.2006 và các quyết định chấm dứt tư cách xã viên của các nguyên đơn do chủ nhiệm Hợp tác xã Đại Đồng ký ngày 12.9.2006.
Lý do khởi kiện là do Hợp tác xã tiến hành thủ tục triệu tập đại hội và thể thức đại hội có vi phạm pháp luật Hợp tác xã và điều lệ của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng. Biên bản không phản ánh đúng diễn biến đại hội.
Các nguyên đơn còn trình bày các nguyên đơn không phải chịu nghĩa vụ thuế với Nhà nước mà chịu trách nhiệm đóng góp tài chính với Hợp tác xã theo chế độ khoán. Do kinh doanh năm 2005 thu lỗ nên các nguyên đơn đã tạm dừng kinh doanh và chưa đóng góp tài chính với Hợp tác xã. Nhưng phía Hợp tác xã không thực hiện nhiệm vụ cấp hoá đơn năm 2005 để các nguyên đơn thực hiện hoạt động kinh doanh lấy thu thập đóng góp với Hợp tác xã và trả nợ dần nghĩa vụ còn thiếu.
Các nguyên đơn khẳng định không nhận được thông báo ngày 30.8.2006 như Hợp tác xã đưa ra và đến nay đối với thông báo này các nguyên đơn cũng cho rằng nội dung là không hợp lệ, không phải là dự định nội dung chương trình đại hội.
Đối với tài liệu là "đơn kiện…" và "công văn gửi công an…" mà Hợp tác xã đưa ra, các nguyên đơn trình bày đã có trả lời của cơ quan thuế về đơn kiện.
Bị đơn vẫn khẳng định 02 quyết định 26 và 27 ngày 12.9.2006 là hợp pháp vì dựa trên kết quả đại hội XV bất thường được triệu tập hợp pháp ngày 11.9.2006.
Sau cuộc họp ngày 29.8.2006, ngày 30.8.2006 Hợp tác xã có thông báo số 24 về việc đại hội bất thường ngày 11 hoặc 12.9.2006. Thông báo này được gửi cho tất cả các xã viên, chỉ có ông Bình bà Ngọ không đồng ý nội dung đại hội nên không ký thông báo. Thông báo còn được niêm yết tại trụ sở Hợp tác xã.
Tỷ lệ biểu quyết khai trừ là 13/19 xã viên có mặt. Như vậy là đúng quy định.
Bị đơn còn trình bày lời khai của các nhân chứng không đủ độ tin cậy vì các nhân chứng này cũng là những người "nợ thuế" với Hợp tác xã, có mâu thuẫn với Ban Quản trị, thể hiện ở việc họ có "đơn kiện…" Hợp tác xã tại Mặt trận Tổ quốc và hành hung thành viên Ban Quản trị Hợp tác xã đã được Hợp tác xã báo với cơ quan công an.
Bị đơn cũng khẳng định cơ sở triệu tập đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 là kết luận tại cuộc họp hai ban ngày 29.8.2006. Ngoài ra, không còn cơ sở nào khác. Bị đơn còn nại rằng không thể chỉ vì một vài cá nhân xã viên không nhận thông báo, giấy mời do có mâu thuẫn với Ban Quản trị Hợp tác xã mà huỷ cả một đại hội được triệu tập hợp pháp như vậy được.
· Tại phiên toà vị luật gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của nguyên đơn phù hợp tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình, tuyên huỷ kết quả đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 và quyết định 26 đối với bà Ngọ, số 27 đối với ông Bình ngày 12.9.2006 do có vi phạm Luật Hợp tác xã và điều lệ của chính Hợp tác xã thương mại Đại Đồng.
Còn vị luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp do phía bị đơn đề nghị Toà án bác yêu cầu của các nguyên đơn.
Các nhân chứng là ông Hùng, ông Vậy, bà Ngọc, bà Nguyệt trình bày như các nguyên đơn đã trình bày về thủ tục triệu tập đại hội ngày 11.9.2006 và diễn biến đại hội.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà.
Sau khi thảo luận và nghị bàn.
Hội đồng xét xử xét thấy
1. Hợp tác xã thương mại Đại Đồng được thành lập lại ngày 29.01.1999 và được Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 58-HTX/TN-HBT ngày 08.02.1999. Điều lệ hiện hành của Hợp tác xã được đại hội xã viên thông qua theo quyết định số14/QĐ-HTX ngày 17.01.2006 sau khi được Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng xác nhận đã đăng ký ngày 22.12.2005. Theo kê khai của Hợp tác xã tại sổ đăng ký danh sách xã viên tính đến ngày 08.9.2006 Hợp tác xã có 19 xã viên, trong đó có ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ. Ông Phan Văn Thoả là chủ nhiệm Hợp tác xã - đại diện pháp nhân.
Quá trình hoạt động, ngày 11.9.2006 Hợp tác xã tiến hành đại hội xã viên bất thường và ngày 12.9.2006 ông chủ nhiệm Hợp tác xã Đại Đồng ký quyết định số 26 và 27 về việc chấm dứt tư cách xã viên Hợp tác xã thương mại Đại Đồng của bà Nguyễn Thị Ngọ và ông Phan Văn Bình.
2. Ngày 24.10.2006 ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ có đơn khởi kiện Hợp tác xã tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, đề nghị Toà án giải quyết huỷ kết quả đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 của Hợp tác xã về việc khai trừ ông Bình, bà Ngọ ra khỏi Hợp tác xã và huỷ quyết định số 26, 27 do ông chủ nhiệm Hợp tác xã ký ngày 12.9.2006 chấm dứt tư cách xã viên của ông Bình, bà Ngọ theo kết quả đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006.
Tại Điều 1 đoạn 2 của Luật Hợp tác xã năm 2003 có quy định "…Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm…".
Như vậy, theo quy định đã viện dẫn trên thì Hợp tác xã là một đơn vị kinh tế, có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó, các tranh chấp giữa xã viên với xã viên, giữa xã viên với Hợp tác xã… trong quá trình thành lập, hoạt động, giải thể Hợp tác xã sẽ được giải quyết tại Toà Kinh tế cấp tỉnh theo quy định tại khoản 4 Điều 29 và điểm a khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự.
Khoản 4 Điều 29 quy định: "Các tranh chấp khác về kinh doanh thương mại mà pháp luật có quy định".
Điểm a khoản 1 Điều 34 quy định: "Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này…".
Trong vụ kiện này, nguyên đơn là ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ đều là xã viên của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng, có đơn khởi kiện đối với Hợp tác xã do ông Phan Văn Thoả làm chủ nhiệm. Đối chiếu với các quy định đã viện dẫn trên thì Toà án Hà Nội thụ lý giải quyết tranh chấp là đúng pháp luật.
3. Như đã nêu trên, ngày 11.9.2006 Hợp tác xã thương mại Đại Đồng tiến hành đại hội xã viên bất thường và ngày 12.9.2006 Hợp tác xã có 02 quyết định do ông chủ nhiệm ký khai trừ 02 xã viên Bình, Ngọ ra khỏi Hợp tác xã. Đến ngày 24.10.2006 ông Bình, bà Ngọ có đơn khởi kiện Hợp tác xã tại Toà án Hà Nội để yêu cầu huỷ kết quả đại hội ngày 11.9.2006 về việc khai trừ xã viên và huỷ 02 quyết định 26, 27 ngày 12.9.2006.
Thấy tại Luật Hợp tác xã không có quy định về thời hiệu yêu cầu giải quyết huỷ quyết định đại hội xã viên. Do đó, về vấn đề thời hiệu khởi kiện sẽ căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để xem xét.
Tại Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thời hiệu như sau: điểm a khoản 3 "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là 02 năm kể từ ngày lợi ích… bị xâm phạm".
Như vậy, tính từ ngày ông Bình bà Ngọ có quyết định chấm dứt tư cách xã viên (vì họ không nhớ đúng ngày) đến khi ông bà có đơn khởi kiện là vẫn nằm trong thời hạn 02 năm của quy định đã viện dẫn trên, nên Toà án chấp nhận để xem xét.
4. Xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
4.1. Hợp tác xã thương mại Đại Đồng là đơn vị kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân độc lập, được thành lập lại từ năm 1999, đã được đăng ký lại hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2003. Quá trình hoạt động, ngày 17.01.2006 Hợp tác xã có quyết định số 14 để sửa đổi điều lệ Hợp tác xã trên cơ sở được Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng xác nhận đại hội xã viên ngày 25.12.2005. Do đó, khi xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ngoài việc căn cứ các quy định của Luật Hợp tác xã 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, còn phải căn cứ các quy định tại điều lệ của Hợp tác xã.
4.2. Tại luật Hợp tác xã cũng như điều lệ Hợp tác xã thương mại Đại Đồng đều không quy định thời điểm kết thúc năm tài chính của Hợp tác xã. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về tài chính kế toán thì năm tài chính được bắt đầu từ ngày 01.01 và kết thúc ngày 31.12 dương lịch của năm đó. Theo quy định này, đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 21 Luật Hợp tác xã và điểm a khoản 2 Điều 11 điều lệ Hợp tác xã thương mại Đại Đồng thì Hợp tác xã phải tiến hành tổ chức đại hội xã viên thường kỳ do Ban Quản trị triệu tập trong vòng 03 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Có nghĩa là chậm nhất đến ngày 31.3 hàng năm Hợp tác xã thương mại Đại Đồng phải tiến hành xong đại hội xã viên thường kỳ để thảo luận các vấn đề được quy định tại khoản 4 Điều 12 của điều lệ (tương ứng với Điều 22 Luật Hợp tác xã năm 2003).
5. Xét thấy: như tài liệu có trong hồ sơ thể hiện, phù hợp với kết quả tranh tụng tại phiên toà, nguyên đơn trình bày và bị đơn công nhận tính đến hết tháng 7.2006 Hợp tác xã Đại Đồng chưa tiến hành đại hội thường kỳ năm 2006 theo đúng quy định của pháp luật và điều lệ Hợp tác xã.
Tuy nhiên, ngày 29.8.2006, Ban Quản trị Hợp tác xã có ông chủ nhiệm Hợp tác xã, ông phó chủ nhiệm Hợp tác xã đã có cuộc họp cùng với Ban Kiểm soát Hợp tác xã là ông Trần Hữu Thường. Tại cuộc họp này, hai ban đặt kế hoạch sẽ tiến hành "tổ chức đại hội để đánh giá công tác 07 tháng đầu năm 2006 vào cuối tháng 8 này; xét hình thức kỷ luật đối với xã viên Bình và Ngọ bằng hình thức khai trừ khỏi Hợp tác xã tại đại hội này".
Thực hiện nội dung kết luận cuộc họp hai ban vào ngày 29.8.2006 nêu trên, ngày 30.8.2006 ông chủ nhiệm Hợp tác xã Phan Văn Thoả thay mặt Ban Quản trị Hợp tác xã ký thông báo số 24TB/HTX gửi đến các xã viên thông báo việc dự kiến thời gian và nội dung tiến hành đại hội xã viên bất thường. Tài liệu hồ sơ thể hiện có 12 xã viên đã nhận thông báo, nhưng không có các nguyên đơn. Theo Hợp tác xã trình bày các nguyên đơn không đồng ý nội dung thông báo nên không ký nhận. Còn phía nguyên đơn xác định không nhận được thông báo gì cả.
Căn cứ tài liệu trên, Toà án thấy không có cơ sở gì để xác định Hợp tác xã đã giao thông báo đến tay các nguyên đơn một cách trực tiếp, đúng thủ tục.
Tiếp đến, như đại diện Hợp tác xã đã công nhận, các nguyên đơn có nhận được giấy mời họp đại hội xã viên bất thường vào ngày 11.9.2006 do ông chủ nhiệm Hợp tác xã ký, giấy mời không đề ngày và không đề nội dung họp, và chỉ đưa trước cho ông Bình bà Ngọ trước 01 ngày tiến hành đại hội (ngày 10.9.2006), không có tài liệu gì khác kèm theo giấy mời. Điều này càng khẳng định thông báo số 24TB/HTX ngày 30.8.2006 nêu trên không được Hợp tác xã đưa đến tận tay ông Bình, bà Ngọ.
Tại Điều 24 Luật Hợp tác xã năm 2003 có quy định "Chậm nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc đại hội xã viên, cơ quan triệu tập đại hội phải thông báo thời gian, địa điểm họp và chương trình đại hội cho từng xã viên hoặc đại biểu xã viên…". Đối chiếu điều luật đã viện dẫn trên thì thông báo số 24 của Hợp tác xã cũng như giấy mời đều làm không đúng. Cụ thể, thông báo chỉ ghi "dự kiến" thời gian đại hội là ngày 11 hoặc 12.9.2006 mà không ghi chính xác ngày, giấy mời thì chỉ được gửi trước có 01 ngày đại hội.
6. Tại cuộc họp ngày 29.8.2006 của Ban Quản trị và Ban Kiểm soát Hợp tác xã đã kết luận sẽ tổ chức đại hội để đánh giá công tác 07 tháng đầu năm 2006… Như vậy, nếu căn cứ kết luận này thì Hợp tác xã sẽ tiến hành đại hội xã viên thường kỳ, phù hợp với thực tế đến hết thời điểm tháng 7.2006 Hợp tác xã chưa tổ chức đại hội xã viên thường kỳ năm 2006 như điều lệ và Luật Hợp tác xã quy định. Nhưng thực tế, ngày 30.8.2006 Hợp tác xã lại có thông báo gửi các xã viên về việc "đại hội bất thường" như vậy là trái với kết luận của cuộc họp hai ban ngày 29.8.2006.
7. Tại khoản 8 Điều 30 Luật Hợp tác xã năm 2003 quy định quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát như sau: "Chuẩn bị chương trình nghị sự và triệu tập đại hội xã viên bất thường khi có một trong các trường hợp sau đây:
a, Khi có hành vi vi phạm pháp luật, điều lệ, nội quy Hợp tác xã và nghị quyết của đại hội xã viên mà Ban Kiểm soát đã yêu cầu mà Ban Quản trị không thực hiện hoặc thực hiện không có kết quả các biện pháp ngăn chặn;
b, Ban Quản trị không triệu tập đại hội xã viên bất thường theo yêu cầu của xã viên quy định tại khoản 4 Điều 21 của Luật này".
Và đoạn 2 Điều 21 quy định "Trong trường hợp có ít nhất 1/3 số xã viên cùng có đơn yêu cầu triệu tập đại hội xã viên gửi đến Ban Quản trị hoặc Ban Kiểm soát thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ đơn Ban Quản trị phải triệu tập đại hội xã viên bất thường, nếu quá thời hạn này mà Ban Quản trị không triệu tập thì Ban Kiểm soát phải triệu tập…".
Vấn đề này được quy định tương tự tại khoản 7 Điều 14 Điều lệ của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng.
Xét "Giấy mời" dự đại hội ngày 11.9.2006 do Hợp tác xã phát hành thì "Giấy mời" không đề ngày, với thể thức tiến hành là "Đại hội bất thường" do chủ nhiệm Hợp tác xã là ông Phan Văn Thoả ký, không có tài liệu về nội dung chương trình đại hội kèm theo, nhất là hồ sơ về vi phạm kỷ luật, điều lệ Hợp tác xã của hai xã viên Bình và Ngọ để đưa ra đại hội xem xét tư cách xã viên của hai người này.
Như vậy, thể thức đại hội như ghi tại "Giấy mời" cũng là trái với kết luận của cuộc họp ngày 29.8.2006.
8. Quá trình thanh toán giải quyết vụ kiện cũng như tại phiên toà, phía nguyên đơn và các nhân chứng là bà Ngọc, ông Hùng, ông Vậy, bà Nguyệt đều trình bày tại đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 chỉ có 04/19 xã viên biểu quyết dơ tay tán thành việc khai trừ ông Bình bà Ngọ ra khỏi Hợp tác xã Đại Đồng. Còn chữ ký của 13 xã viên và biên bản ngày 11.9.2006 mà Hợp tác xã cung cấp cho Toà án là được làm sau này, và Hợp tác xã đã đi lấy chữ ký của các xã viên đó vào biên bản do Hợp tác xã làm ra, phản ánh không trung thực, bỏ bớt các ý kiến phát biểu của các xã viên tại đại hội bất thường, ngoài lời trình bày như trên các nguyên đơn cũng như ông Hùng, ông Vậy, bà Ngọc, bà Nguyệt không đưa ra được căn cứ pháp lý nào khác để bác bỏ biên bản ngày 11.9.2006 mà Hợp tác xã đã cung cấp.
9. Nhưng Toà án cũng thấy rằng ngày 11.9.2006 Hợp tác xã thương mại Đại Đồng tổ chức "Đại hội xã viên bất thường". Trình tự thủ tục triệu tập đại hội đều thực hiện không đúng các quy định của pháp luật, thể thức tiến hành đại hội trái với kết luận của cuộc họp Ban Quản trị và Ban Kiểm soát. Cụ thể đã vi phạm điểm a khoản 2 Điều 11 điều lệ Hợp tác xã và khoản 3 Điều 21 Luật Hợp tác xã - về hình thức đại hội (thường kỳ hay bất thường), vi phạm Điều 24 Luật Hợp tác xã, và không phù hợp với quy định tại Điều 30 Luật Hợp tác xã năm 2003, Điều 14 điều lệ Hợp tác xã thương mại Đại Đồng về thể thức tiến hành đại hội bất thường - vì như đại diện Hợp tác xã khẳng định căn cứ tiến hành đại hội chỉ là kết luận của cuộc họp hai ban ngày 29.8.2006, nhưng lại trái thể thức đại hội mà cuộc họp đã kết luận.
10. Đối với biên bản đại hội, ngoài lời trình bày của các nguyên đơn và các nhân chứng mà nguyên đơn đề nghị Toà án triệu tập, các nguyên đơn không có biên bản hoặc tài liệu nào khác. Do đó, phải xác định đúng là biên bản đã ghi tỷ lệ biểu quyết đối với từng nội dung là 14/19 xã viên. Tuy nhiên, nếu trình tự thủ tục và thể thức tiến hành đại hội không đúng quy định của pháp luật thì biên bản này cũng không có giá trị pháp lý.
11. Từ phân tích trên Toà án thấy có đủ cơ sở xác định trình tự thủ tục và thể thức tiến hành "Đại hội xã viên bất thường" ngày 11.9.2006 của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng đã vi phạm pháp luật Hợp tác xã và điều lệ của chính Hợp tác xã thương mại Đại Đồng. Vì vậy, thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, huỷ kết quả "Đại hội xã viên bất thường" ghi tại biên bản ngày 11.9.2006 của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng.
Do kết quả đại hội xã viên bất thường ngày 11.9.2006 bị huỷ, không có giá trị pháp lý nên các quyết định số 26 và 27 ngày 12.9.2006 về việc chấm dứt tư cách xã viên Hợp tác xã thương mại Đại Đồng đối với bà Nguyễn Thị Ngọ (quyết định số 26) và ông Phan Văn Bình (quyết định số 27) cũng cần được huỷ.
12. Đề nghị của vị luật gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Hợp tác xã không công nhận tư cách của các nhân chứng và trình bày không thể chỉ vì bà Ngọ, ông Bình không ký nhận thông báo, hoặc giấy mời để huỷ toàn bộ kết quả đại hội. Thấy rằng, ông Bình và bà Ngọ đều là các xã viên của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng, đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với các xã viên khác trong Hợp tác xã về mọi mặt, kể cả đối với Ban Quản trị cũng như Ban Kiểm soát. Nên chỉ cần một cá nhân ông Bình, hoặc bà Ngọ không được Hợp tác xã tạo điều kiện thực hiện đầy đủ quyền lợi của họ theo pháp luật mà họ có đơn yêu cầu thì Toà án cũng phải xem xét.
Do đó, quan điểm của luật sư không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật.
13. Do yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn được Toà án chấp nhận nên họ không phải chịu án phí theo quy định tại điều 15, 19 Nghị định 70 về án phí. Họ được hoàn lại mỗi người 250.000 đồng dự phí đã nộp tại biên lai số 7296 ngày 22.01.2007 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.
Phía bị đơn - Hợp tác xã thương mại Đại Đồng chịu 500.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
Quyết định
- Căn cứ khoản 4 Điều 29; điểm a khoản 1 Điều 34; Điều 131; Điều 159; Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Nghị quyết 01/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
- Căn cứ Điều 1, Điều 24 Luật Hợp tác xã.
- Căn cứ Nghị định 70/CP của Chính phủ.
- Căn cứ điều lệ Hợp tác xã thương mại Đại Đồng.
Xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
1. Huỷ kết quả được ghi tại biên bản họp đại hội xã viên bất thường của Hợp tác xã thương mại Đại Đồng ngày 11.9.2006.
- Huỷ quyết định số 26QĐ/HTX ngày 12.9.2006 của Ban Quản trị Hợp tác xã thương mại Đại Đồng về việc chấm dứt tư cách xã viên Hợp tác xã Đại Đồng của bà Nguyễn Thị Ngọ bằng hình thức khai trừ do đại hội xã viên ngày 11.9.2006 quyết định.
- Huỷ quyết định số 27QĐ/HTX ngày 12.9.2006 của Ban Quản trị Hợp tác xã thương mại Đại Đồng về việc chấm dứt tư cách xã viên Hợp tác xã thương mại Đại Đồng của ông Phan Văn Bình bằng hình thức khai trừ do đại hội xã viên ngày 11.9.2006 quyết định.
2. án phí:
- Hợp tác xã thương mại Đại Đồng chịu 500.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
- Hoàn lại cho ông Phan Văn Bình và bà Nguyễn Thị Ngọ 500.000 đồng dự phí (mỗi người 250.000 đồng) theo biên lai số 7296 ngày 22.01.2007 tại phòng Thi hành án Hà Nội.
3. án xử công khai sơ thẩm, có mặt các nguyên đơn và bị đơn.
Báo nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
|