Chào #3366cc; text-decoration: none; text-underline: none;">ChuTuocLS & các bạn!
Để xác định hành vi phòng vệ của một người như thế nào là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, chúng ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu như thế nào là phòng vệ chính đáng từ chính khái niệm của nó.
Khoản 1 Điều 15 BLHS quy định: "Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên".
Chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề được rất nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm có nhiều ý kiến khác nhau nên dẫn đến các quyết định khác nhau trong nhiều trường hợp. Đã có nhiều bài viết của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn bàn về phòng vệ chính đáng. Nhưng chưa có một nghiên cứu nào với ý nghĩa là một công trình khoa học đề cập một cách đầy đủ, toàn diện. Về phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng chưa có một giải thích chính thức nào về chế định này.
Trước khi có BLHS năm 1985, TANDTC có ban hành chỉ thị số 07 ngày 22/12/1983. Trong đó phần I quy định về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Sau khi BLHS năm 1985 ra đời, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986. Trong đó tại phần II có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng.
Hai văn bản này tuy chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Nhưng qua thực tiễn xét xử thì cho đến nay, nó được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng, tinh thần của nó vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 BLHS. Nội dung như sau:
Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
b) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
c) Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
d) Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
Để xem xét hành vi chống trả có tương xứng hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (thí dụ: bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng); mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại (nam, nữ; tuổi; người xâm hại là côn đồ, lưu manh…); cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc (nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya) v.v… Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức (như: gây thương tích nặng, làm chết người) đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phòng vệ chính đáng.
(Ở trên là nội dung nguyên văn, từ "tương xứng" được BLHS 1999 sửa thành "cần thiết").
Tuy vậy, hai văn bản trên còn hạn chế về nhiều mặt, chúng chưa quy định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, như chưa đưa ra được căn cứ xác định thế nào là cần thiết khi thực hiện hành vi chống trả? Các lợi ích bị xâm phạm trong trường hợp nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ, trường hợp nào không được coi là phòng vệ? Dẫn đến không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau.
Qua thực tiễn đấu tranh chống tội phạm, quan điểm của đại đa số những người làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng đều cho rằng những điều kiện cần và đủ để một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội đủ các yếu tố sau:
1/ Về phía nạn nhân (người bị chống trả) phải là người đang có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể (hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc) đến các lợi ích quy định tại Điều 15 BLHS. Nếu hành vi chưa bắt đầu hoặc đã kết thúc thì hành vi chống trả không được coi là hành vi phòng vệ.
Mức độ đáng kể tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm và phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân. QHXH cần bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Nếu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi chống trả không được coi là phòng vệ.
Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật (có thể là hành vi phạm tội hoặc hành vi khác trái với quy định của các ngành luật khác xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân). Nếu hàn vi xâm phạm lại là hành vi mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ.
Khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương quan với hành vi chống trả. Không phải bất cứ hành vi phạm tội nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đề là phòng vệ chính đáng. Ngược lại có hành vi xâm phạm chưa phải là phạm tội, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm trọng đến các lợi ích cần bảo vệ nên hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.
Như vậy, khi xem xét hành vi của người đang xâm phạm đến các lơi ích cần bảo vệ, khong phải chỉ căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm, mà còn phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ, đồng thời xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả trong từng trường hợp cụ thể để xem nó có được coi là phòng vệ chính đáng hay không.
2/ Về phía người phòng vệ
Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe cho người có hành vi xâm phạm.
Nếu không gây thiệt hại cho chính người xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác, hoặc không gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác thì không được coi là hành vi phòng vệ.
Hoặc nếu do người xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác nên người chống trả cũng gây thiệt hại lại về ài sản của người xâm phạm thì cũng không được coi là phòng vệ chính đáng.
3/ Yêu cầu về sự cần thiết của hành vi chống trả
Hành vi chống trả phải là hành vi cần thiết. Tuy nhiên sự cần thiết không có nghĩa là ngang bằng, bên xâm phạm gây thiệt hại thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế đó. Sự chống trả cần thiết trước hết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ.
Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu; tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ, quyết liệt bấy nhiêu. Khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả. Đồng thời còn phải căn cứ vào nhiều yếu tô khác như: mối tương quan lực lượng giữa các bên, thời gian, không gian xảy ra sự việc.
Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật, mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả lại sự xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ. Nó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của con người, nên không đặt ra yêu cầu phương pháp, phương tiện của người phòng vệ cũng phải như phương pháp, phương tiện mà người tấn công sử dụng.
Như vậy, khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả, nhất là trong trường hợp bị tấn công bất nờ. Chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng là quá đáng. Tức là hành vi chống trả rõ ràng là quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mưc độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Và đúng như #3366cc; text-decoration: none; text-underline: none;">ChuTuocLS vừa khẳng định, ranh giới giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là rất mong manh. Không thể có một khái niệm cụ thể như thế nào là PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG, thì cũng không thể đưa ra một khái niệm cụ thể như thế nào là VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG.
Trân trọng!
Hãy làm tất cả những gì trong phạm vi cho phép và khả năng có thể!