Vụ Vạn Thịnh Phát: Bị cáo xin miễn hình phạt vì ung thư có đúng quy định không?

Chủ đề   RSS   
  • #609992 28/03/2024

    btrannguyen
    Top 75
    Lớp 12

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:13/03/2024
    Tổng số bài viết (1181)
    Số điểm: 23218
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 498 lần
    SMod

    Vụ Vạn Thịnh Phát: Bị cáo xin miễn hình phạt vì ung thư có đúng quy định không?

    Trong phiên xét xử vụ án Vạn Thịnh Phát, có một bị cáo đã được luật sư đề nghị xin miễn chấp hành hình phạt vì đang bị ung thư giai đoạn cuối. Như vậy, bệnh ung thư có được miễn hình phạt tù hay không? Các trường hợp nào pháp luật quy định sẽ được miễn hình phạt tù?

    Bệnh ung thư có được chấp hành miễn hình phạt tù?

    Thông tin thêm về vụ việc: 

    Theo Báo Thanh Niên đưa tin, hôm nay ngày 28/3/2024 TAND TP HCM tiếp tục xét xử vụ án Trương Mỹ Lan (68 tuổi, Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát) và đồng phạm gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) khoảng 498.000 tỷ đồng. 

    Trong phần bào chữa cho bị cáo Lưu Đức Thắng (1 trong 3 bị cáo trong nhóm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, bị VKSND TP HCM đề nghị mức án 3 năm tù treo), vị luật sư bào chữa đã xin HĐXX xem xét miễn hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đang bị ung thư giai đoạn cuối, hiện sức khỏe có chuyển biến xấu.

    Quy định pháp luật về miễn chấp hành hình phạt tù

    Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật hình sự 2015 về miễn chấp hành hình phạt như sau:

    - Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

    - Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    + Sau khi bị kết án đã lập công;

    + Mắc bệnh hiểm nghèo;

    + Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

    - Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.

    - Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    - Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    - Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.

    Trong đó, bệnh hiểm nghèo theo quy định tại Khoản 4 Điều 8 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP được nhắc đến như sau: Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: 

    - Ung thư giai đoạn cuối

    - Xơ gan cổ trướng

    - Lao nặng độ 4 kháng thuốc

    - Bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên

    - HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

    Đồng thời, bệnh ung thư cũng được quy định tại danh mục bệnh hiểm nghèo quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định 134/2016/NĐ-CP.

    Như vậy, người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt (hoặc trên 03 năm chưa chấp hành hình phạt và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa) nhưng bị ung thư giai đoạn cuối mà được bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị thì sẽ được xem là bệnh hiểm nghèo và có thể được Toà án miễn hình phạt tù theo đề nghị của Viện trưởng VKSND.

    Thủ tục đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù

    Thủ tục đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 39 Luật thi hành án hình sự 2019 quy định như sau:

    Bước 1: VKSND đề nghị TAND xét miễn chấp hành hình phạt tù

    - Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người chấp hành án phạt tù đang cư trú hoặc làm việc lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu xét miễn chấp hành án phạt tù. 

    - Hồ sơ bao gồm:

    + Bản sao bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;

    + Văn bản đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền;

    + Đơn xin miễn chấp hành án phạt tù của người bị kết án;

    + Đối với người bị kết án đã lập công hoặc lập công lớn thì phải có bản tường trình có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền; 

    + Đối với người bị kết án bị bệnh hiểm nghèo thì phải có kết luận của bệnh viện, hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên; 

    + Đối với người bị kết án chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn thì phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú.

    Bước 2: Thành lập Hội đồng xét miễn chấp hành án phạt tù

    - Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị miễn chấp hành án phạt tù, Chánh án Tòa án có thẩm quyền thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp để xét, quyết định miễn chấp hành án phạt tù. 

    - Thành phần Hội đồng gồm 03 Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. 

    - Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.

    Bước 3: Ra quyết định miễn chấp hành án phạt tù

    Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc miễn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định đó cho:

    - Người chấp hành án

    - Viện kiểm sát đề nghị

    - Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp

    - Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp

    - Tòa án đã ra quyết định thi hành án

    - Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được miễn chấp hành án cư trú

    - Đơn vị quân đội được giao quản lý người đó

    - Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định có trụ sở

    - Bộ Ngoại giao trong trường hợp người được miễn chấp hành án là người nước ngoài.

    Bước 5: Làm thủ tục trả tự do cho người được miễn chấp hành án

    Ngay sau khi nhận được quyết định miễn chấp hành án phạt tù, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải làm thủ tục trả tự do cho người được miễn chấp hành án và báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp trên.

    Như vậy, để được miễn chấp hành án phạt tù thì người bị kết án phải nằm trong các trường hợp pháp luật quy định cho phép và được VKSND đề nghị.

     
    325 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận