Năm nào cũng vậy, vào tháng giêng cũng là mùa bắt đầu của lễ hội, hầu như tỉnh nào cũng có lễ, có hội . Đố các bạn biết cả nước ta có bao nhiêu lễ hội?
AN GIANG
1. Hội Đền Bảo Sanh
Thời gian: 15/1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Long Sơn, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Đối tượng suy tôn: Lão Gia (danh y cổ Trung Quốc).
Đặc điểm: Lễ hội cầu sự việc tốt lành.
Hội thờ một vị thần gốc Trung Hoa, dân chúng quen gọi là chùa Lào Yá. Chùa tọa lạc tại xã Long Sơn, cách quận lỵ Tân Châu (An Giang) độ 4 cây số, ở hữu ngạn rạch Cái Vùng, mặt chùa hướng ra vàm rạch. Lào Yá đã được triều đình nhà Thanh sắc phong là Bảo Sanh Đại Đế.
Lào Yá chính là tiếng Triều Châu đọc theo hai chữ Lão gia. Tên thật của ông không ai rõ, dân chúng trong vùng quen dùng hai tiếng Triều Châu Lào Yá để gọi và cũng có người gọi kính cẩn là Quan Lớn hoặc Lão Y nghĩa là một danh y từng trải, và thói quen này đã hầu như át hẳn bốn chữ Bảo Sanh đại đế, xa lạ với quần chúng.
Chùa Lào Yá được lập nên gần một thế kỷ rồi và người dân rất tôn sùng ông. Hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng, dân chúng có cử hành lễ tại chùa rất long trọng, còn quanh năm chùa có người tới lễ, khói hương nghi ngút.
2. Hội đền Nguyễn Trung Trực
Thời gian: 18 - 19/ 10 âm lịch.
Địa điểm: Xã Long Kiên, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Đối tượng suy tôn: Nguyễn Trung Trực, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam Bộ.
Đặc điểm: Lễ dâng hương, lễ cúng tưởng niệm.
Đền Nguyễn Trung Trực ở xã Long Kiên, huyện Chợ Mới. Ông là thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam bộ, với chiến thắng vang dội là đã đánh chìm một tàu của Pháp trên sông Nhật Tảo (thế kỷ 19). Lễ hội mở ra vào ngày 18, ngày 19 tháng 10 âm lịch hàng năm để tưởng niệm và ghi nhớ công lao của ông.
Phần lễ cơ bản có các nghi thức cổ truyền bao gồm: lễ tế đàn cả, lễ tế cụ Nguyễn, lễ dâng hương...
Phần hội với sự tham gia của các đoàn nghệ thuật với những tiết mục biểu diễn góp phần làm không khí lễ hội trở nên sôi động.Trong đó đáng chú ý nhất là tiết mục diễn lại trận đánh chìm tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Nhật Tảo. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian, biểu diễn võ thuật, chơi cờ người, thi múa lân sư rồng, thi cộ hoa, thả hoa đăng trên dòng sông Kiên...
Kể từ năm 2003 trở đi, lễ hội đền Nguyễn Trung Trực được xem là một trong những sự kiện văn hoá lớn mang tầm cỡ quốc gia với nhiều hoạt động vui chơi giải trí đặc sắc, thu hút đông đảo du khách đến tham gia
3. Hội miếu Bằng Lang
Thời gian: 15 - 16/3 âm lịch.
Địa điểm: Xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Đối tượng suy tôn: Bà Thượng Đồng Cổ Hỷ.
Đặc điểm: Dâng lễ vía Bà, hát bội.
Do chiến tranh, một bộ phận người Chăm thiên di vào Nam, được triều đình nhà Nguyễn chỉ định cư trú tại một số nơi gần bản doanh của quân triều để tiện bảo vệ, che chở.
Ban đầu họ ở rải rác nhiều nơi, dần về sau, để thích nghi với sinh kế truyền thống (dệt vải, đánh bắt cá, nuôi dê cừu...), họ quần cư thành những xóm nhỏ cặp theo bờ sông, nhiều nhất là tại Châu Giang (ngang Châu Đốc).
Để có chỗ dựa tinh thần, định cư tại đâu họ cũng dựng miếu thờ Bà, gọi “Thiên Y” hay “Thánh mẫu”, nói đủ là “Thiên Y nương nương”, “Thánh mẫu nương nương”. Dần về sau, do toàn bộ người Chăm ở An Giang đều theo đạo Islam (Hồi giáo – theo luật của đạo này, tín đồ chỉ thờ độc nhứt thánh Alla), do đó họ không tín ngưỡng “thờ Bà” nữa.
Chính vì vậy, mỗi khi trò chuyện nếu ai đó cố nhắc mãi những chuyện cũ không còn hợp thời, người dân lớp trước vùng sông nước Nam Bộ đã gọi trại “bà Thiên Y” thành “bà Cố Hỉ” (nói đủ là “Thượng Động Cố Hỉ”): “Chuyện đâu hồi đời bà Cố Hỉ mà cứ nói hoài!”. Vậy bà Cố Hỉ là ai?
Bà là một vị nhiên thần, được xem là “thần tối cao” của người Chăm, “nguyên quán” tận Nha Trang, do từng tỏ ra linh ứng nên được các vua triều Nguyễn sắc phong (Gia Long, 1901; Duy Tân, 1909...).
Về thần tích, theo Đào Thái Hanh “Những người bạn cố đô Huế”, ngày xưa ở núi Đại Điền có một ông già nhà quê và bà vợ cùng chung sống bằng nghề trồng dưa. Nhưng lần nào dưa sắp chín thì có người đến đánh cắp hết. Bực mình ông già nấp để canh dưa mong bắt được kẻ trộm.
Một đêm ấm áp, ông thấy bên bụi cây, một cô thiếu nữ tuổi độ 13,14 đưa tay xinh đẹp hái dưa, vừa ngắm nghía vừa khen ngợi, vuốt ve và ăn ngon lành dưới ánh trăng. Ông già bắt lấy, hỏi cô và biết được cô là kẻ đánh cắp thường xuyên mùa dưa của ông. Ông rất ngạc nhiên về cách đi đứng khoan thai và mỹ miều của cô gái và ông quyết định đưa về chòi để nuôi nấng như con nuôi
.
Suốt thời gian ấy cô ở nhà ông nông dân; sắc đẹp huyền diệu, sự trong trắng và tình yêu cảnh yên tĩnh làm cho cha mẹ nuôi cô rất mến và xem như con trời cho vậy.
Có một hôm, thình lình vùng ấy bị trận lụt lớn, Thiên Y tự nhiên buồn bã có vẻ nhớ quê hương, đem lượm đá và chất lên như một hòn núi nhỏ và trồng hoa xung quanh để dựng lại cảnh đẹp của quê hương cô là “Đảo tam thần” xứ hoan lạc vĩnh cửu. Người cha nuôi thấy cách chơi này không vừa ý mình nên mắng quở làm cô mủi lòng và buồn nản.
Trong lúc đó thì trôi qua một cây cổ thụ Đà Nam, gỗ rất thơm, bị trốc gốc, nước cuốn trôi giữa dòng. Thiên Y bám lấy thân cây và để trôi ra biển theo làn sóng.
Cái xác cây bị cuốn ra Bắc và dạt vào bờ. Dân chúng ở miền đó rất ngạc nhiên thấy cây gỗ và xúm lại để lôi vào bờ. Nhưng mất công vô ích, cây gỗ quá nặng mặc dầu số lượng người bao nhiêu cũng không sao đẩy cây gỗ được.
Tin này chẳng bao lâu được truyền đi khắp nước. Vị hoàng tử sắp lên thái tử, thấy việc lạ, đến tò mò xem vào cuộc câu bắt lạ lùng này. Vị thái tử cũng xuống nước và bỗng một tay nhấc nổi cây gỗ kéo vào bờ, và truyền cho đem vào vườn trong hoàng cung.
Vị thái tử này đã đến tuổi nhưng chưa có vợ. Có một đêm vừa đi qua lại gần cây gỗ để nghĩ đến tương lai mình, thình lình dưới ánh trăng mờ ảo, ông thấy một bóng người hiện ra trong sương mờ thơm ngát và đang đi đến. Thấy vậy ông rất rung động.
Đêm sau, khi ông đang trầm ngâm trong cảnh hoang vắng thì lại thấy bóng ấy xuất hiện. Lần này ông đuổi theo thì điều kỳ lạ, từ bóng ấy ông thấy xuất hiện một thiếu nữ xinh đẹp. Người thiếu nữ này lúng túng định trốn nhưng không kịp nữa, ông hoàng đã ôm chặt trong vòng tay mà nàng không thoát nổi.
Được hỏi tới, Thiên Y kể lại hết những sự kiện đã xảy ra trong đời nàng, trước khi bị trôi đến vùng này. Ông hoàng rất mê say và tâu lại vua cha về cuộc phiêu lưu tình cảm này. Vua sai các vị thiên văn xem tử vi. Họ đều đồng tình và lễ cưới được tổ chức cho Thái Tử và Thiên Y theo phong tục trong nước.
Sau cuộc tình duyên đẹp đẽ này nàng sinh ra luôn hai đứa con. Đứa trai tên là Tri và đứa gái tên là Quý.
Khi nào cũng bị lôi cuốn trong nỗi buồn bí ẩn, một ngày kia công chúa Thiên Y đưa hai con ra bờ biển, trốn chồng, nàng đưa hai con lên cây gỗ Đà Nam và đi vào hướng Nam.
Khi trở lại cảng Cù Huân nàng bèn đi tìm lại cha mẹ nuôi trước. Mái nhà tranh cũ chẳng thấy nữa, lão nông dân và vợ đã chết từ lâu. Nàng xây một đền thờ hai vị.
Thời kỳ ấy, dân ở Nha Trang đang còn sống lối hoang dã, chưa có phương tiện để sống và để chống lại thiên tai. Thiên Y để thời giờ giáo dục họ, những người xung quanh nàng phải tuân thủ luật pháp và phải tiết kiệm để giàu có.
Nàng khắc hình mình trên tảng đá đẽo ở núi Cù Lao, làm xong cả nàng và con biến mất giữa ban ngày. Ông thái tử, biết sự việc, đem cả một hạm thuyền đi theo tìm. Khi họ đến cù lao, bọn man rợ trên đoàn thuyền của thái tử chém giết dân làng ở đó và đem bôi nhọ các hình chạm trên đá của công chúa. Để xử phạt bọn này, một trận bão lớn, gió xoáy làm trôi các thuyền bè, các mảnh đá vỡ biến thành tảng đá.
Từ ngày ấy trở đi, vị Nữ thần ban bố nhiều "phép lạ" liên tiếp nhau.
Có nhiều khi người ta thấy công chúa cưỡi con voi trắng đi dạo quanh trên đỉnh núi, và mỗi lần ra đi chơi đều có nổ ba tiếng ầm vang như lệnh đại bác. Có nhiều lần nàng xuất hiện dưới dạng tấm lụa bay vun vút trên trời hay nhiều khi nàng cưỡi đầu con cá sấu và đi lượn quanh hòn cù lao và các đảo lân cận.
Dân làng tôn thờ nàng như vị nữ thần và nhờ nàng ban ơn cho họ hưởng bao nhiêu điều mong ước cầu nguyện.
Trên núi có hai cái tháp, bên trái là dành cho nữ thần, bên phải là để thờ nàng và thái tử chồng nàng. Sau các tháp ấy là một ngôi chùa thờ cha mẹ nuôi của nàng.
Có một bia mộ trước các tháp ấy chữ theo lối văn tự mà dân bản xứ chẳng hiểu gì ý nghĩa cả. Giờ đây, trong vườn mà các tháp ấy và chùa được dựng lên, nhiều khách đến tham quan hái quả trong vườn để ăn tại chỗ nhưng nếu đem đi thì sẽ bị thần phạt.
Có một ngày trong năm, nhiều thú rừng và cá biển đến chầu yên lặng trước đền của nữ thần như là ngày kỵ giỗ theo kiểu của chúng.
Khi còn làm quan, đại thần Phan Thanh Giản đã có làm một bài văn tế viết bằng chữ Hán, được chạm khắc trên bia đá trân tàng tại Tháp Bà Nha Trang, nay vẫn còn.
Trong tinh thần tôn kính thần linh, cũng nhằm thể hiện tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em, hiện không ít nơi bà con người Việt vẫn thường lui tới những nơi thờ Bà để cầu xin những điều may mắn.
Vài dấu tích còn sót lại trên vùng đất này là Miếu Bà ở Chợ Vàm (huyện Phú Tân, An Giang – cũng gọi “miếu Bằng Lăng”, vì sau miếu có những cây bằng lăng rất to), miếu Bà ở Thất Sơn (An Giang – trong khuôn viên một ngôi chùa Phật), miếu Bà ở Phong Điền (Cần Thơ – cũng gọi Cổ miếu Giàn Gừa vì trong khuôn viên có những cây gừa rất to)... Tất cả đều được trùng kiến rất khang trang và tất nhiên khói hương không dứt.
4. Lễ Đôlta và hội đua bò
Đối tượng tôn vinh: Tưởng nhớ công ơn tổ tiên và cầu phúc cho linh hồn người đã chết.
Thời gian: Từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 âm lịch (nếu tháng thiếu sẽ kéo dài sang ngày 2 tháng 9 âm lịch).
Địa điểm: Tại chùa, từng gia đình cộng đồng người Kh’mer thuộc huyện Tri Tôn hoặc Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Đặc điểm: Cầu phước cho các linh hồn thân nhân đã khuất được đầu thai sang kiếp khác, để người quá cố được sung sướng hơn. Trong dịp lễ Đôlta có hội đua bò theo thể thức truyền thống của người Kh’mer.
Lễ Đôlta
Lễ Đôlta vào tháng 8 âm lịch (lễ cúng tổ tiên). Thông thường trong dịp lễ Đôlta có hội đua bò kéo bừa truyền thống, một trong 10 sự kiện lớn ở vùng Bảy Núi (An Giang), mang sắc thái văn hoá độc đáo của người dân ở đây.
Người dân vùng Bảy Núi sống chủ yếu bằng cày cấy, vì thế từ muôn đời nay con bò đã trở thành thân thiết với bà con Kh'mer.
Lễ Đôlta tổ chức theo trình tự với các nghi lễ sau:
- Lễ đặt cơm vắt
- Lễ cúng tổ tiên
- Lễ hội linh
- Lễ đưa tiễn ông bà
Hội đua bò
Trường đua bò thường là một khu đất rộng khoảng 60m, dài chừng 170m xung quanh có bờ đất cao đồng thời là nơi dành cho khán giả. Đường đua trên mặt ruộng nước dài khoảng trên 100m, rộng khoảng 4m; hai đầu cắm mốc xuất phát và đích.
Mỗi giải đua ấn định 38 đôi bò được lựa chọn sau các lần đua ở vòng loại tại các xã. Nhiều con tham gia giải nhiều năm, chúng đều to khoẻ, dáng đẹp: đầu to, lưng thẳng, xương chắc, đuôi dài, tai ngắn và nhỏ, cổ tròn và cặp mắt hiền lành. Đối với những người có kinh nghiệm chọn bò lâu năm thì đôi bò tốt còn là tài sản theo đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vì đôi bò thắng trận sẽ có gần 20 triệu đồng. Tuy nhiên chủ bò không bao giờ bán đôi bò của mình nếu giành giải nhất, vì đó là niềm vinh dự của gia đình và cộng đồng.
Vào cuộc đua, đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp bao gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Lúc này các tài xế được phân thành cặp và làm thủ tục chọn cặp đua trước, đua sau. Không giống như đua xe, tất cả xuất phát cùng một lúc. Đua bò lại thi hai đôi một: đôi trước, đôi sau. Mỗi cặp bò đều phải kéo theo một giàn bừa đã được cưa ngắn bớt răng. Người điều khiển đứng trên giàn bừa vung roi như khi đang bừa trên ruộng, do vậy họ phải đứng để không bị ngã, nếu ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa thì phạm luật và thua cuộc. Ngày nay thể thức đua bò đã được cải tiến hơn xưa rất nhiều: cuộc đua diễn ra trên mặt ruộng có nước chứ không phải trên mặt đường như trước đây, vì vậy tính mạng của người điều khiển bò an toàn hơn. Tuy có một số thay đổi nhưng lệ vẫn giữ nhiều quy ước cũ.
Cuộc đua chia làm hai vòng: vòng hu và vòng thả, hết vòng hu đến vòng thả. Có thể hiểu vòng hu là vòng loại của cuộc đua, còn vòng thả mới phản ánh đầy đủ sức mạnh của cặp bò cùng tay nghề, bản lĩnh của người điều khiển.
Vào vòng hu, mỗi đôi bò phải đi dạo hai vòng quanh trường đua để trình diễn và khởi động. Nếu đôi bò nào đạp vào bừa của đôi bò khác là bị loại.
Ngược lại, lệ quy định ở vòng thả khác với vòng hu, nếu đôi bò nào ở phía sau đạp vào bừa của đôi bò trước thì lại thắng cuộc.
Đua bò ở An Giang đã có từ hàng trăm năm nay. Sự kiện này là dịp những người đàn ông trong phum sóc trổ tài dũng cảm, sự khôn khéo của mình trước cộng đồng. Hàng ngày những tài xế, chủ bò là những nhà nông chân lấm tay bùn, nhưng lúc này họ được tôn vinh là nhân vật chính của ngày hội.
5. Lễ hội đình Châu Phú
Thời gian: 9 - 11/5 âm lịch.
Địa điểm: Phường Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Đối tượng suy tôn: Nguyễn Hữu Cảnh (cháu của Nguyễn Trãi).
Đặc điểm: Dâng hương, lễ kỳ yên, hát bội đêm.
Đình Châu Phú, nơi thờ Thành hoàng Nguyễn Hữu Cảnh - một người có công với đất Nam bộ và nhất là có thời gian gắn bó với vùng đất An Giang. Ngoài Thành hoàng Nguyễn Hữu Cảnh, trong đình còn thờ Thoại Ngọc Hầu cùng hai ông chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và phó vệ thủy Lê Văn Sanh.
Ngay từ sáng ngày mùng 9/5 âm lịch, tiến hành lễ thỉnh "Sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh" từ Nhà lớn về đình. Lễ diển ra rất long trọng, có xe hoa, long đình, chiêng, trống, học trò lễ v.v... các vị trong ban quản trị đình thần mặc áo dài khăn đóng đi hầu phía sau. Sau lễ thỉnh "Sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh" là lễ thỉnh "Sắc thần Thoại Ngọc Hầu", sắc thần của hai ông chánh vệ thuỷ Đỗ Đăng Tàu và phó vệ thuỷ Lê Văn Sanh.
Ngày 10/5 đúng một giờ đêm lễ Túc kết bắt đầu với đầy đủ nghi thức dân gian truyền thống. Lễ vật chính dâng cúng trong buổi lễ Túc yết gồm có một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng tiết, một ít lông heo gọi chung là "mao huyết", một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng.
Sau khi lễ Túc yết xong, là đến lễ Xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện.
Ngày 11/5 cuối cùng của lễ hội bắt đầu vào 3 giờ sáng với lễ chính tế, nghi thức diễn lại như lễ túc yết sau phần dâng trà là phần âm thực mang ý nghĩa truyền thống. Đến 13 giờ cùng ngày thì tiến hành nghi thức cuối cùng là lễ Nối sắc. Nghi thức cũng giống lễ thỉnh sắc.
Hội đình Châu Phú vừa mang ý nghĩa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống ấm no. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, trang phục chỉnh tề thành tâm cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an.
6. Lễ hội miếu Bà Chúa Xứ
Thời gian: từ đêm 23/4 đến 27/4 âm lịch
Địa điểm: miếu Bà Chúa Xứ, núi Sam, cách thị xã Châu Đốc 7km
Đối tượng suy tôn: Bà Chúa Xứ
Đặc điểm: lễ tắm Bà.
Phần lễ của lễ Vía Bà gồm năm lễ: Lễ tắm Bà, Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về Miếu Bà, Lễ Túc Yết, Lễ xây chầu, Lễ Chánh tế.
Lễ tắm Bà. Lễ này được tổ chức vào lúc 24 giờ đêm 23 rạng ngày 24. Nói là tắm bà, nhưng thực tế là lau lại bụi bặm trên tượng thờ và thay áo mão cho Bà. Nước tắm tượng là nước thơm, bộ y phục cũ của Bà được cắt nhỏ ra phân phát cho khách trẩy hội và được coi như lá bùa hộ mệnh giúp cho người khoẻ mạnh và trừ ma quỷ. Lễ tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó mọi người được tự do lễ bái.
Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về Miếu Bà:Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24.Các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề sang lăng Thoại Ngọc Hầu nằm đối diện với miếu bà làm lễ Thỉnh Sắc rước bài vị của Ngọc Hầu Nguyễn văn Thoại, bà nhị phẩm Trương Thị Miệt, và bài vị Hội đồng. Khi vào đến Miếu Bà, các bài vị trên được an vị ngôi chính điện, Ban quản trị dâng hương thỉnh an, lễ thỉnh sắc kết thúc. Tục lệ thỉnh sắc Thoại Ngọc hầu đã có từ lâu để tỏ lòng biết ơn ông là người có công khai phá vùng đất hoang vu này.
Lễ Túc Yết: Lễ được tổ chức 0 giờ ngày 25 rạng ngày 26. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên trước tượng Bà. Vật cúng gồm có: một con heo trắng (đã được cạo lông mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chín), một đĩa đựng huyết có ít lông heo gọi chung là "mao huyết", một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối. Ông chánh bái làm lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà, dâng tế, sau đó thì hóa một ít giấy vàng bạc.
Lễ xây chầu: Sau cúng túc yết là Lễ xây chầu.Ông chánh bái sẽ bước tời bàn thờ đặt giữa võ ca, hai tay cầm dùi trống nâng ngang trán khấn vái. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một nhành dương liễu. Ông chánh bái ca công cầm nhành dương nhúng vào tô nước rồi vảy nước ra xung quanh, vừa đọc to những lời cầu nguyện. Đọc xong, ông chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi trống và xướng "ca công tiếp giá", lập tức đoàn hát bộ nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bộ bắt đầu. Các tuồng hát bộ sau đây thường được diễn tại miếu bà: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Lưu Kim Đính, Trưng Nữ Vương v.v...
Lễ Chánh tế: Đến 4 giờ sáng ngày 26 cúng Chánh tế (nghi thức giống như cúng "túc yết"). Chiều ngày 27 đưa sắc Thoại Ngọc hầu về Sơn Lăng.
Phần hội diễn ra rất sôi nổi đan xen với phần lễ,các hoạt động văn hoá nghệ thuật dân gian được biểu diễn như múa lân, múa mâm thao, múa đĩa chén...thu hút nhiều du khách.
Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam là một lễ hội mang bản sắc dân tộc đậm nét, nhưng cũng chứa đựng nhiều màu sắc địa phương Nam Bộ. Lễ hội thực sự là một lễ hội văn hoá dân gian đáp ứng nhu cầu văn hoá xã hội, đời sống tinh thần của nhân dân.