Kính gửi: - Website Thư viện pháp luật Việt Nam!
- Các luật sư trong hội đồng tư vấn pháp luật!
Tôi là Võ Văn Dũng, phóng viên đang công tác tại Hội nhà báo Nghệ An. Rất mong các luật sư tư vấn cho tôi một vấn đề có liên quan đến việc chi trả chế độ tiền tuất cho thân nhân của công nhân viên chức.
Cơ quan tôi có nhận được đơn thư của công dân. Tôi xin trình bày nội dung đơn thư như sau:
Ông Phan Bá Thanh Long, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1922, tham gia cách mạng trước 1945, nghỉ hưu năm 1977 mất ngày 7 tháng 11 năm 1979, tại thời điểm mất, lương hưu là 48 đồng, có thời gian công tác liên tục 30 năm. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Em 57 tuổi (sinh năm 1922), là xã viên sống và làm việc tại quê trong chế độ ăn chia Hợp tác xã. Ông bà có 6 người con:
Con trai cả là viên chức đang công tác tại Hà Nội, có vợ và hai con, mức thu nhập chỉ đủ để nuôi vợ và các con.
Con trai thứ 2 và thứ 3 là bộ đội tại ngũ xa nhà.
Con trai thứ 4 là sinh viên ĐHBK Hà Nội.
Con trai thứ 5 đang ôn thi Đại học tại Hà Nội.
Con gái út là chị Phan Thị Hòa 16 tuổi (Sinh ngày 5/10/1963) đang học THPT, khi học hết cấp 3 thì bị bệnh tâm thần cho đến nay.
Tại thời điểm đó, mức thu nhập của gia đình bà Em được khai là: “ăn chia trong hợp tác xã, mỗi tháng 5,2 Kg thóc. Bản thân: 5,2 Kg thóc tháng.” (Theo tờ khai của gia đình bà Em - đã được chính quyền xã xác nhận - xem ảnh chụp)
Ngày 1/8/1980, Căn cứ các chế độ trợ cấp tiền tuất đã được Hội đồng Chính phủ ban hành kèm theo các nghị định 218-CP ngày 27-12 - 1961, 161 CP ngày 30 - 10 - 1964, 163- CP ngày 11-11-1964 (?), Ty thương binh xã hội tỉnh Nghệ Tĩnh ra quyết định số 3423 BHXH với một số nội dung đáng chú ý như sau:
1. Tại điều 1: Tiền mai táng phí là 150 đồng
2. Tại điều 2: Chị Phan Thị Hòa được hưởng tiền tuất hàng tháng
3. Tại điều 3: Bà Em được “ trợ cấp tuất hàng tháng, sau đây kể từ ngày 1/1/1980
- Trợ cấp định suất: 9 đ00
- Trợ cấp thêm 5 % của phần tiền lương cao hơn 40 đồng: 0đ40
- Trợ cấp thêm 10% của hai khoản trên cộng lại: 0đ94
- Tổng: 10đ34 ( mười đồng 3 hào 4 xu)
v Bên dưới quyết định có ghi thêm mấy dòng bằng bút: “Trường hợp này cho số nhưng không cấp sổ vì đã thôi cấp từ 1-10-80” và lề bên phải ghi: Từ 1-10-80 thôi cấp
(Tôi đã chụp hình bản khai của gia đình bà Em và quyết định của Ty thương binh xã hội Nghệ Tĩnh để các đồng chí xem)
Theo đơn thư của bà Em, gia đình bà chỉ nhận được 80 đồng tiền mai táng phí, không nhận thêm được một khoản tiền nào khác. Xin các luật sư tư vấn dùm các vấn đề sau đây:
1. Gia đình bà chỉ nhận được 80 đồng tiền mai táng phí là đúng hay sai? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này?
2. Bà Em và chị Hòa không hề nhận được một đồng tiền tuất nào, (xin luật sư lưu ý dùm theo Quyết định của Ty thương binh xã hội Nghệ Tĩnh thì trường hợp của bà Em có được nhận tiền tuất không? Tôi đã đối chiếu với Thông tư của Bộ thương binh xã hội số 33/TBXH ngày 3/4 năm 1980 hướng dẫn cách tính mức bình quân thu nhập để thi hành chế độ tiền tuất nhưng vẫn chưa được rõ. Các căn cứ để ra quyết định của Ty thương binh xã hội Nghệ Tĩnh đã đúng chưa, nếu đúng thì trường hợp bà Em có được nhận tiền tuất không và được nhận như thế nào?)
3. Bên dưới và bên phải quyết định có những dòng chữ viết tay, điều này hơi khó hiểu. Tôi đã hỏi cán bộ Bảo hiểm xã hội Nghệ An (Nghệ An và Hà Tĩnh tách đơn vị hành chính đã lâu, Ty thương binh xã hội cũng tách thành Bảo hiểm xã hội tỉnh và Sở lao động thương binh xã hội) nhưng họ không giải thích được. Người ra quyết định đã qua đời. Có quyết định thôi cấp không? Căn cứ vào đâu để thôi cấp? Theo như QĐ thôi cấp thì tại thời điểm thôi cấp, con ông Long là chị Phan Thị Hòa chưa đủ 18 tuổi. Điều đó có đúng với luật hiện hành không?
4. Sau khi làm đơn gửi các cấp thẩm quyền, gia đình bà Em nhận được văn bản của UBND Huyện Thanh Chương ( Nơi bà Em đang sống cùng con gái) với nội dung: Quyết định về việc hưởng chế độ tiền tuất của Ty thương binh xã hội Nghệ Tĩnh không gửi cho UBND huyện nên huyện không có quyền giải quyết. Còn BHXH tỉnh Nghệ An gửi văn bản tới UBND huyện Thanh Chương có đoạn viết: “ Tại thời điểm ông Long chết, bà Nguyễn Thị Em lập tờ khai hoàn cảnh gia đình có xác nhận của UBND xã Thanh Văn ngày 24 tháng 12 năm 1979, khai gia đình bà lúc đó đã có 3 con trưởng thành thoát ly. Căn cứ nghị định số 218-CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Hội đồng chính phủ quy định “thân nhân của người chết là chồng đủ 60 tuổi, vợ đủ 55 tuổi trở lên với điều kiện không còn người thân để nương tựa mới được xét để hưởng trợ cấp tuất hàng tháng” (?). Do vậy, bà Em không thuộc đối tượng được giải quyết hưởng chế độ tiền tuất hàng tháng”. Xin luật sư nói rõ hơn về chỗ này, nếu theo nghị định 218-CP và theo bản khai của bà Em thì bà có thuộc diện hưởng chế độ tiền tuất không?
Từ năm 1961 đến năm 1979 ( lúc ông Long mất), Thủ tướng chính phủ có ra nghị định nào hay văn bản sửa đổi về việc trả chế độ tiền tuất không? Các căn cứ để ra quyết định trên có đúng với các chế độ hiện hành không?
Mong các luật sư tư vấn để chúng tôi có cơ sở trả lời đơn thư của công dân. Chúng tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự giúp đỡ nhiệt tình của hội đồng tư vấn pháp luật. Chúc các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Người xin được tư vấn
Võ Văn Dũng