Thông qua trung gian đưa ra lời đề nghị với bị hại về một công việc sau đó chuyển giao bị hại cho người khác, buộc làm công việc trái ý muốn của bị hại thì phạm tội gì?
Tìm hiểu nội dung của án lệ số 65/2023/AL về truy cứu trách nhiệm hình sự tội "mua bán người" (được ban hành kèm theo Quyết định 364/QĐ-CA năm 2023 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành).
Tóm tắt nội dung vụ việc:
Do nhu cầu cần người để giao cho các tàu đánh cá nhằm hưởng tiền chênh lệch nên bị cáo Dương Văn S đã liên hệ với đối tượng tên G (không biết họ và địa chỉ cụ thể ở Thành phố Hồ Chí Minh) tìm người giao cho bị cáo S theo giá thỏa thuận. Đối tượng G đã dùng mạng xã hội Facebook đăng tuyển lao động (làm phụ xe khách đường dài) với mức lương cao. Các anh Bùi Văn D, Lê Đức M và Trần Văn T lên mạng xã hội Facebook tìm việc làm, thấy thông tin do C đăng tuyển nên liên hệ xin việc. Vào ngày 26/7/2017, 03 anh đến Bến xe Miền Đông thì đối tượng G cho xe đón và đưa thẳng về nhà bị cáo S thuộc Ấp 1, thị trấn A và nhận số tiền 09 triệu đồng.
Sau khi nhận người, bị cáo S chỉ đạo cho bị cáo Phạm Hồng K lấy hợp đồng lao động cho các anh D, T và M ký tên với nội dung đi biển, do thỏa thuận ban đầu là đi làm lơ xe nên các anh không đồng ý ký tên. Lúc này các bị cáo S, K và C dùng hung khí (gồm dao tự chế, cây sắt và dao Thái Lan) đe dọa nếu không đồng ý ký hợp đồng thì trả 10.000.000 đồng, nếu không có thì phải bị giữ lại, các người bị hại bị đưa vào nhà bà Hà Thị L (mẹ ruột của S) giữ lại. Bị cáo S phân công K và C thay phiên canh giữ, mục đích là để S tìm tàu đánh cá cần người thì sẽ giao nhằm hưởng tiền chênh lệch, đồng thời S giao cho Dương Thị T (là em gái S) trực tiếp kiểm tra việc canh giữ này.
Trong quá trình giữ người, bị cáo S chỉ đạo cho các bị cáo K và T lấy các tài sản và các tư trang cá nhân của những người bị hại cất giữ. Bị cáo T yêu cầu các anh D, T và M giao nhưng các anh không đồng ý nên bị cáo K cầm dao đe dọa “Tụi mày tự nguyện đưa hay để tao tự lấy”, do sợ vì biết được các bị cáo có hung khí nên các bị hại đã giao tài sản gồm: Ba lô, quần áo, 03 điện thoại di động, 03 cái ví bên trong có 03 giấy chứng minh nhân dân, 02 thẻ ATM mang tên Trần Văn T và Bùi Văn D. Sau khi lấy được tài sản bị cáo K giao lại cho S và S lấy trong ví của anh M số tiền 700.000 đồng và trong ví của anh D số tiền 1.000.000 đồng, đưa cho C 120.000 đồng, đưa cho K 330.000 đồng, số tiền còn lại S giữ lấy tiêu xài cá nhân.
Đến khoảng 22 giờ, ngày 27/7/2017 anh M và anh T trốn ra khỏi nơi giam giữ bằng đường thông gió, đến sau đó khoảng 05 giờ ngày 28/7/2017 anh D cũng trốn được. Cả 03 đến Đồn biên phòng Gành Hào trình báo sự việc.
Quá trình làm việc tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hải các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị hại người liên quan và hiện trường vụ án.
- Vật chứng vụ án gồm: Điện thoại di động, ví da, balo và quần áo các người bị hại đã nhận lại đầy đủ; 01 cây dao có cán màu vàng dài 21 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 11cm (một bề được mài sắc), nơi rộng nhất của lưỡi dao là 02 cm; 01 cây dao tự chế dài 49 cm, phần cán dao và lưỡi dao được làm bằng kim loại, lưỡi dao dài 35 cm (một bề được mài sắc), nơi rộng nhất của lưỡi dao là 03 cm; 01 thanh kim loại có dạng hình hộp chữ nhật, bên trong rỗng, một đầu thanh kim loại được quấn vải, chiều dài 63 cm, chiều rộng 04 cm, chiều cao 02 cm, hiện nay chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải đang quản lý. Số tiền 980.000 Công an huyện Đông Hải gửi tại Ngân hàng N, chi nhánh huyện Đ.
- Về trách nhiệm dân sự: Anh Bùi Văn D yêu cầu bồi thường số tiền 1.000.000 đồng và anh Lê Đức M số tiền 700.000 đồng.
Bị cáo Trần Ích C đã khắc phục số tiền 1.700.000 đồng; Các bị cáo Dương Văn S, Phạm Hồng K và Dương Thị T mỗi bị cáo nộp khắc phục hậu quả số tiền 400.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 17/CT-VKSĐH, ngày 09/04/ 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải truy tố bị cáo Dương Văn S, Phạm Hồng K, Trần Ích C và Dương Thị T phạm tội “Mua bán người” theo quy định tại Điều 150 khoản 2 điểm đ của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, đối với các bị cáo Dương Văn S, Phạm Hồng K và Dương Thị T còn phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 135 khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Nội dung của Án lệ:
“[9] Do biết được các tàu đánh cá trên địa bàn huyện Đ cần nhiều người đi biển (ngư phủ) nên bị cáo Dương Văn S đã liên kết với đối tượng G tìm người cung cấp cho các chủ tàu để hưởng tiền chênh lệch.
[10] Đối tượng tên G đã đưa lời đề nghị cần lao động làm lơ xe với mức lương cao nên các anh D, T và M nhận lời. Khi nhận được các người bị hại đối tượng G chở xuống giao cho bị cáo S và nhận số tiền 9.000.000 đồng. Bị cáo S đã chỉ đạo đồng bọn là các bị cáo K, T và C thay phiên canh giữ để bị cáo tìm tàu đánh bắt giao lại lấy tiền chênh lệch.
[11] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người được Hiến pháp và pháp luật quy định, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, các bị cáo nhận thức được việc mua bán người là vi phạm pháp luật, nhưng vì tư lợi cá nhân và lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của các người bị hại nên các bị cáo đã thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo là người đủ năng lực pháp luật chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình gây ra.
[12] Hành vi của các bị cáo xảy ra từ tháng 7/2017 và được quy định tại tình tiết định khung tăng nặng “đối với nhiều người” theo quy định tại điểm e, khoản 2 Điều 119 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 có mức hình phạt từ 05 năm đến 20 năm, còn theo Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi thuộc tình tiết định khung “từ 02 người đến 05 người” được quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 150 có mức hình phạt từ 8 năm đến 15 năm là nhẹ hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999 nên cần áp dụng có lợi cho các bị cáo theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm h, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Do đó hành vi nêu trên của các bị cáo đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Mua bán người” theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015.”
Như vậy, việc bị cáo thông qua trung gian để đưa ra lời đề nghị với bị hại về một công việc nên bị hại nhận lời. Sau đó, bị cáo chuyển giao bị hại cho người khác, buộc các bị hại làm công việc trái ý muốn của bị hại nhằm mục đích kiếm lời thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán người”. Cụ thể, khoản 1 Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) có mô tả mặt khách quan của tội phạm như sau:
“Điều 150. Tội mua bán người
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
...”.