Tranh chấp ranh giới đất đai

Chủ đề   RSS   
  • #319240 18/04/2014

    maihalinhhlu

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:18/04/2014
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 0
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Tranh chấp ranh giới đất đai

    Tranh chấp quyền sử dụng đất (tranh chấp ranh giới) giữa:

              Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu Thực sinh năm 1960; trú tại tổ dân cư số 4, khu Tân Mỹ 2, thị trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

    Bị đơn: Ông Liễu Thanh Quảng sinh năm 1938; trú tại nhà số 31, đường Phan Huy Chú, khối Cửa Nam, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

    NỘI DUNG VỤ ÁN

              Theo đơn khởi kiện đề ngày 14-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Hữu Thực trình bày:

              Tại Quyết định số 1124/QĐ-UBND ngày 12/7/2006, ông được UBND thành phố Lạng Sơn giao đất và thu tiền sử dụng đất đối với 43,2m2 tại đường Phan Huy Chú, khối Cửa Nam, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn (thuộc thửa đất số 185, tờ bản đồ 48 phường Chi Lăng) và đến ngày 29/9/2006 UBND thành phố Lạng Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông. Liền kề với diện tích đất ông được cấp nêu trên là nhà, đất của ông Liễu Thanh Quảng. Ông Quảng đã xây dựng công trình phụ, ban công tầng 2, tầng 3 nhà ông Quảng lấn sang phần đất của ông khoảng 05m2 (bao gồm cả phần khoảng không và phần mặt đất), ông đã yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng hai bên không hoà giải được. Do đó, ông khởi kiện đề nghị Toà án buộc ông Quảng trả lại ông diện tích đất đã lấn chiếm nêu trên.

    Bị đơn là ông Liễu Thanh Quảng trình bày: Nhà, đất ông sở hữu và sử dụng tại số 31 Phan Huy Chú (trước đây là số 8 phố Lao Động) liền kề với đất ông Thực được cấp có nguồn gốc ông thuê của Nhà nước từ năm 1967, đến năm 1991 do nhà xuống cấp ông đã xin phép và được chính quyền cho ông xây dựng mới. Đến năm 2001, Nhà nước bán căn nhà này cho ông (Quyết định số 615/QĐ-UB ngày 12/3/2001 của UBND tỉnh Lạng Sơn) và ngày 25/11/2004 ông được UBND thành phố Lạng Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 51m2 đất. Ông Quảng cho rằng ông lấn chiếm đất của ông Thực là không đúng, vì căn nhà vẫn nguyên hiện trạng từ khi ông mua của Nhà nước, nên ông không đồng ý với yêu cầu cảu ông Thực.

    * Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DSST ngày 17-4-2009, TAND huyện thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn với nhận định (tóm tắt):

    Căn nhà gia đình ông Quảng đang sử dụng có nguồn gốc là nhà thuộc sở hữu Nhà nước và liền kề là ngõ đi chung rộng khoảng 1m. Năm 1991, ông Quảng xây dựng mới, ông Quảng đã xây dựng công trình phụ, đổ ban công tầng 2, tàng 3 chờm ra ngõ đi chung nhưng không cơ quan chức năng nào có ý kiến và Công ty quản lý nhà thu tiền nhà theo diện tích mà ông Quảng đã xây dựng, nên phần đất phía Đông (đất ngõ) mà ông Quảng đã xây dựng công trình phụ và ban công, Nhà nước đương nhiên quản lý từ năm 1991. Sau đó năm 2001 ông Quảng mua lại căn nhà theo hiện trạng đã xây dựng từ năm 1991, nên phần đất gắn liền với công trình phụ và phía dưới ban công đương nhiên thuộc quyền sử dụng của ông Quảng. Năm 2004 ông Quảng kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 51m2 đất theo số đo của Công ty kinh doanh nhà đã bán cho ông Quảng. Việc các cơ quan chức năng cho rằng diện tích gắn liền với khu vệ sinh và nằm dưới ban công, ông Quảng không kê khai nên không cấp và là đất công là không đúng với thực tế, là sai sót của các cơ quan chức năng, nên dẫn đến việc cấp trùng diện tích đất nêu trên cho ông Thực và dẫn đến tranh chấp.

    Từ đó quyết định:

    Bác đơn yêu cầu của ông Nguyễn Hữu Thực đòi ông Liễu Thanh Quảng trả lại 5m2 đất và khoảng không là không có căn cứ. Ranh giới phía đông nhà đất của ông Quảng giáp đất nhà ông Thực được xác định như sơ đồ hiện trạng kèm bản án.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo.

    * Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Rỉ kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

    * Tại bản án dân sự phúc thẩm số 38/2009/DSPT ngày 24-8-2008, Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn với nhận định (tóm tắt): Khi xây dựng lại nhà năm 1991, gia đình ông Quảng đã xây dựng không đúng sơ đồ thiết kế kèm theo giấy phép, cụ thể là ban công tầng 1, tầng 2 đã lấn sang ngõ đi chung và phần công trình tường rào, bể nước cũng không có trong thiết kế. Tại phiên toà phúc thẩm ông Quảng cũng thừa nhận việc xây dựng ban công tầng 1, tầng 2 , phần công trình tường rào, bể nước không có trong sơ đồ thiết kế và vượt quá phạm vi đất được sử dụng. Ông Quảng cũng không kê khai phần đất đã xây dựng công trình vượt quá giấy phép để được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Theo Quyết định số 615/QĐ-UB ngày 12/3/2001 thì UBND tỉnh Lạng Sơn chỉ bán cho ông Quảng nhà cấp 4 với diện tích 24,9m2 (như giấy phép thiết kế sửa chữa lớn), nên việc ông Quảng cho rằng ông mua nhà của Nhà nước nên hiện trạng ngôi nhà như thế nào ông sử dụng đến đó. Khi giao đất cho ông Thực, UBND thành phố Lạng Sơn đã trừ phần tiếp giáp nhà ông Quảng khoảng trống có chiều rộng là 0,38m, nhưng phần công trình của ông Quảng vẫn lấn vào đất của ông Thực, nên cần buộc ông Quảng tháo dỡ phần công trình xây dựng trên phần đất ông Thực được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để trả lại đất cho ông Thực.

    Từ đó quyết định:

    1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu Thực. Giao cho ông Thực được sử dụng diện tích đất tranh chấp là 4,64m2 (gồm 2,4m2 trên đó gia đình ông Quảng đã xây dựng công trình tường rào, bể nước và 2,24m2 là phần ban công mái tôn nhà ông Quảng lấn sang khoảng không trên đất).

    2. Buộc ông Liễu Thanh Quảng phải tháo dỡ các công trình đã làm trên phần đất nêu trên để trả quyền sử dụng đất cho ông Thực, cụ thể:

    - Tháo dỡ công trình: tường rào, một phần bể nước ăn đã xây trên diệ tích đất là 2,4m2 là hình KK1L1L với các kích thước KK1 = LL1 = 4,06m, K1L1 = 0,56m (0,94m - 0,38m) và KL =0,65m (1.03m - 0,38m).

    - Tháo dỡ phần ban công tầng 1 của nhà ông QUảng lẫn chiếm sang phần đất cấp cho hộ ông Thực diện tích là 1,13m2 là hình CC1D1D với CC1 = DD1 = 5,15m và CD = C1D1 = 0,22m (0,60m - 0,38m); tháo dỡ một phần nha fveej sinh nằm trên phần ban công bị tháo dỡ trên.

    - Tháo dỡ phần ban công tầng 2 của nhà ông QUảng lẫn chiếm sang phần đất cấp cho hộ ông Thực diện tích là 2,24m2 là hình CC1E1E với CC1 = EE1 = 5,15m và CE = 0,39m (0,77m - 0,38m); CE1 = 0,48m (0,86m - 0,38m).

    - Tháo dỡ phần mái tôn tầng 3 lấn sang diện tích đã giao cho anh Thực nêu trên.

    Cho em hỏi về căn cứ pháp lí giải quyết vụ án

     
    3537 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận