Để phân biệt các tội này thì cần phải trả lời 2 câu hỏi:
1. Người phạm tội có thấy trước hậu quả xảy ra hay không?
2. Nếu thấy trước hậu quả chết người thì họ mong muốn, chấp nhận, hay loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.
Nếu câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất là không thì có thể loại trừ khả năng lỗi cố ý với hậu quả chết người xảy ra.
Chỉ có khả năng có lỗi cố ý với hậu quả chết người khi câu trả lời thứ nhất là có.
Khi đã thấy trước hậu quả chết người mà người PT vẫn thực hiện hành vi PT thì chỉ có thể thuộc một trong 4 trường hợp:
+ Mong muốn hậu quả chết người xảy ra => Lỗi CYTT với hậu quả.
+ Chấp nhận HQ chết người xảy ra => Lỗi CYGT với hậu quả.
+ Loại trừ khả năng xảy ra hậu quả chết người (sự loại trừ là thiếu cơ sở). =>Lỗi VY do QTT với hậu quả.
+ Loại trừ khả năng xảy ra hậu quả chết người (sự loại trừ là có cơ sở đầy đủ). =>Không có lỗi với hậu quả.
Để xác định thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hậu quả chết người đã xảy ra thì cần dựa vào một số yếu tố sau:
- + Sự lựa chọn công cụ phương tiện, phương pháp phạm tội và lựa chọn cách thức sử dụng phương tiện
-
Trường
hợp người PT chấp nhận hậu quả chết người xảy ra, người PT không quan tâm đến hậu
quả chết người nên không quan tâm đến mức độ nguy hiểm của phương tiện, phương
pháp phạm tội, cách thức sử dụng phương tiện. Người PT chỉ quan tâm đến mục
đích chính khác (không phải mục đích gây hậu quả chết người), do đó tiêu chí để
người Pt lựa chọn phương tiện, phương pháp PT là những thứ có khả năng giúp người
PT đạt được mục đích chính chứ không phải những phương tiện, phương pháp có khả
năng gây hậu quả chết người. Biểu hiện của thái độ tâm lý chấp nhận hậu quả chết
người trong việc lựa chọn phương tiện, phương pháp phạm tội và cách thức sử dụng
phương tiện của người PT là người PT lựa chọn, chuẩn bị bất kỳ phương tiện,
phương pháp phạm tội nào, sử dụng phương tiện bằng bất kỳ cách thức nào có khả
năng cao nhất giúp họ đạt được mục đích chính, không phụ thuộc vào tính nguy hiểm
của phương tiện hay cách thức sử dụng phương tiện đối với tính mạng của nạn
nhân.
- Trong
trường hợp người PT có ý thức loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra, người
PT vừa quan tâm làm sao để tránh hậu quả chết người xảy ra vừa quan tâm đến mục
đích chính, do đó người phạm tội vừa quan tâm đến mức độ nguy hiểm vừa quan tâm
đến khả năng giúp đạt được mục đích của phương tiện, phương pháp PT cũng như
cách thức sử dụng. Tiêu chí để người phạm tội lựa chọn phương tiện, phương pháp
phạm tội và cách thức sử dụng là những phương tiện, phương pháp ít nguy hiểm nhất,
sao cho tránh được hậu quả chết người mà vẫn có khả năng giúp người PT đạt được
mục đích chính, trong đó tránh hậu quả chết người là tiêu chí được ưu tiên số 1
(lựa chọn những phương tiện, phương pháp có thể tránh hậu quả chết người trước,
sau đó mới lựa chọn trong số phương tiện, phương pháp đó lấy phương tiện,
phương pháp có khả năng cao nhất giúp người PT đạt được mục đích chính).
Biểu hiện: người Pt lựa chọn phương tiện, phương pháp ít nguy hiểm nhất, và ngay khi chuẩn bị hoặc trong quá trình sử dụng phương tiện và phương pháp phạm tội, người phạm tội có thể có những biện pháp làm giảm bớt mức độ nguy hiểm của phương tiện hoặc sử dụng phương tiện bằng cách thức ít nguy hiểm nhất để tránh hậu quả chết người xảy ra.
Trường hợp người PT mong muốn hậu quả chết người xảy ra, người phạm tội quan tâm làm sao để gây ra hậu quả chết người, do đó quan tâm đến mức độ nguy hiểm của phương tiện, phương pháp phạm tội cũng như cách thức sử dụng phương tiện. Tiêu chuẩn lựa chọn phương tiện của người phạm tội trong trường hợp này là phương tiện có khả năng cao nhất gây ra hậu quả chết người. Biểu hiện: người phạm tội lựa chọn phương tiện, phương pháp phạm tội cũng như cách thức sử dụng phương tiện có mức độ nguy hiểm cao nhất; trong khi chuẩn bị, sử dụng phương tiện, phương pháp phạm tội, người phạm tội có thể có những biện pháp làm tăng mức độ nguy hiểm của phương pháp, phương tiện phạm tội.
+ Diễn biến thái độ của người PT trong quá trình thực hiện TP
Trường hợp người phạm tội chấp nhận khả năng hậu quả chết người xảy ra, người phạm tội không quan tâm đến hậu quả chết người mà chỉ quan tâm đến việc đạt được mục đích chính.
Trường hợp người PT có ý thức loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra, người PT vừa quan tâm để tránh hậu quả chết người vừa quan tâm để đạt mục đích chính, do đó diễn viến xấu đối với nạn nhân hay hậu quả chết người xảy ra hay khả năng đạt được mục đích chính đều có tác động đến người PT, tuy nhiên mức độ tác động của chúng đối với người phạm tội là khác nhau vì thứ tự ưu tiên quan tâm của người phạm tội là làm sao để tránh hậu quả chết người trước, sau đó mới quan tâm đến khả năng đạt được mục đích chính. .
Trường hợp người PT mong muốn hậu quả chết người xảy ra, người PT quan tâm là sao để gây ra hậu quả chết người, do đó khả năng gây ra hậu quả chết người cao hay thấp đều có tác động đến diễn biến thái độ của người PT trong quá trình thực hiện tội phạm.
+ Những biểu lộ khác của người PT trước, trong và sau khi thực hiện TP (trước hết là những biểu lộ bằng ngôn ngữ)
Có thể sử dụng những tình tiết này để chứng minh thái độ chủ quan của người PT vì những biểu hiện bên ngoài và thái độ tâm lý bên trong có liên quan đến nhau, những suy nghĩ bên trong của người PT có thể được bộc lộ qua những biểu hiện bên ngoài; những biểu hiện bên ngoài của người PT có thể phản ánh sự quan tâm của người PT đối với hậu quả chết người đã thấy trước, qua đó có thể chứng minh người phạm tội mong muốn hay chấp nhận hay có ý thức loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra.
Tuy nhiên không phải mọi biểu hiện bên ngoài đều phản ánh đúng suy nghĩ bên trong của người PT. Do đó, cần phải đánh giá tổng thể các tình tiết cộng thêm biểu lộ bên ngoài để có xác định chính xác về biểu lộ của người phạm tội.
+ Tính chất nguy hiểm của hành vi PT
Người
PT thực hiện hành vi nguy hiểm đến mức độ tất nhiên phải gây ra hq chết người,
thì có thể trực tiếp kết luận được thái độ chủ quan của người PT chỉ có thể là
mong muốn hq chết người xảy ra
+ Động cơ, mục đích chính cũng như nhân cách (thái độ) của người phạm tội
Nếu làm rõ được động cơ hành động (tại sao người PT thực hiện TP) phù hợp với mục đích của hành động (người PT muốn gì qua hành vi PT), hành động tước đoạt tính mạng của người khác để đạt được mục đích cũng chính là nhằm thỏa mãn động cơ => Người PT mong muốn hq chết người xảy ra.
Nếu người PT đánh giá việc đạt được mục đích chính của mình quan trọng hơn việc tránh hậu quả chết người xảy ra, nên đã lựa chọn quyết định thực hiện hành vi Pt nhằm đạt được mục đích chính, chấp nhận khả năng hậu quả chết người xảy ra => người PT chấp nhận hq . Sự đánh giá, lựa chọn này của người PT có chịu ảnh hưởng của nhân cách cá nhân. Do đó có thể sử dụng tình tiết nhân cách và mục đích chính cuả người PT cùng với những tình tiết khác để xác định thái độ chủ quan của người PT đối với hậu quả chết người đã thấy trước
Tuy nhiên,
+ Từ một động cơ có thể có nhiều mục đích khác nhau.
+ Một mục đích có thể xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau.
+ Một người có thể có sử xự phù hợp hoặc trái với nhân cách của họ.
Do đó những tình tiết này chỉ có ý nghĩa tham khảo, giúp xác nhận củng cố nhận định khi nó phù hợp với những tình tiết khác của vụ án.
Trên đây chỉ là một vài ý kiến phân tích mà mình tiếp thu được khi học luật hình sự. Bạn có thể tham khảo thêm nhé.
GSTS Nguyễn Ngọc Hòa, phó hiệu trưởng trường đại học Luật HN là một chuyên gia về phần lỗi. Bạn có thể tìm đọc các bài viết của thầy về phần lỗi để hiểu thêm nhé.
Cập nhật bởi ntdieu ngày 29/11/2011 05:23:26 CH
sửa lỗi font
Đường chông gai chờ ngày mai ta bước tiếp!