Tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" trong tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản"?

Chủ đề   RSS   
  • #606264 20/10/2023

    minhpham1995
    Top 50
    Male
    Lớp 9

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:21/10/2017
    Tổng số bài viết (1446)
    Số điểm: 12229
    Cảm ơn: 9
    Được cảm ơn 211 lần


    Tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" trong tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản"?

    Chưa thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài sản thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không? Và như thế nào là phạm tội có tổ chức?

    Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 64/2023/AL về định khung hình phạt và tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" trong tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" (được ban hành kèm theo Quyết định 364/QĐ-CA năm 2023 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành).

    Tóm tắt nội dung vụ việc:

    Khoảng tháng 8/2018, Trần Văn N cho anh Lưu Mạnh T2 vay 150.000.000 đồng nhưng đòi nợ nhiều lần anh T2 không trả và bỏ trốn vào Thành phố Hồ Chí Minh nên N nảy sinh ý định lừa anh T2 ra Hà Nội để bắt giữ đòi nợ. N mượn tài khoản Zalo của Nguyễn Diệu L, mạo danh L để kết bạn, nói chuyện và hẹn anh T2 đi chơi ở TĐ, Vĩnh Phúc vào chiều ngày 15/01/2019.

    Ngày 12/01/2019, N rủ L, Nguyễn Quang T, Nguyễn Văn Đ, Phan Văn Q tham gia bắt giữ anh T2 để đòi nợ; L, T, Đ và Q đồng ý. N chuẩn bị 03 gậy rút (mỗi gậy dài khoảng 60cm), 01 bình xịt hơi cay, 01 bật lửa điện và 01 còng số 8.

    Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, N bảo Đ thuê xe taxi của anh Trịnh Anh T1 để chở N, L, Đ, Q, T ra sân bay Nội Bài. Trên xe, N bàn bạc cách thức bắt giữ anh Lưu Mạnh T2 với L, Đ, Q và T nên anh T1 biết rõ việc các đối tượng trên đến sân bay bắt giữ anh T2 để đòi nợ. Trên xe, L nhận được điện thoại của anh T2 thông báo 19 giờ cùng ngày anh sẽ đến sân bay Nội Bài.

    Khoảng 15 giờ ngày 15/01/2019, Trịnh Anh T1 chở N, L, Đ, Q, T đến sân bay Nội Bài và thuê 02 phòng nghỉ gần sân bay. Tại đây, N và Đ nói cho T1 biết kế hoạch bắt giữ anh T2, cụ thể: L sẽ thuê xe taxi khác đi trước đón anh T2, T1 chở mọi người theo sau; khi xe taxi của L và anh T2 dừng lại, T1 đỗ xe phía sau để mọi người chạy lên bắt giữ anh T2. T1 đồng ý.

    Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 15/01/2019, L đón anh T2 và thuê xe taxi đi theo hướng TĐ, Vĩnh Phúc. T1 chở N, Đ, Q, T đi theo sau. Trên xe, N đưa cho Đ và T2 mỗi người 01 gậy rút, đưa cho Q 01 bình xịt hơi cay. Đi được khoảng 15 km thì xe taxi chở L và anh T2 dừng lại, xe của anh T1 dừng phía sau. N, Q, Đ, T xuống xe và chạy sang xe taxi của anh T2. T đưa L sang xe của T2. N mở cửa sau bên trái, Đ mở cửa sau bên phải, Q mở cửa trước ghế phụ xe taxi của anh T2 và xịt hơi cay vào mặt anh T2. N và Đ dùng gậy đánh anh T2, N và Q dùng tay đấm vào mặt anh T2 đến khi anh T2 xin trả tiền nợ thì N, Q, Đ mới dừng lại. N và Đ giữ tay anh T2, N đưa còng số 8 để Đ khóa một đầu vào tay phải của anh T2, một đầu khóa vào gầm ghế lái. Đ lấy áo trùm đầu anh T2 và yêu cầu lái xe đi về hướng Bắc Ninh. Đến Bắc Ninh, N bảo T đưa anh T2 về giữ tại kho tập kết phế liệu của T 01 hôm. N sang xe của T và L (do anh T1 lái) đi trước; xe taxi chở Q, Đ và anh T2 đi theo sau. Đến nơi, Đ bảo lái xe taxi đi thẳng vào trong kho, xe của T1 đỗ ngoài cửa còn N và L đi vào trong kho. Khoảng 05 phút sau, T1 lái xe về trước, T đóng cửa kho lại. Q xuống xe cầm theo ba lô, anh T2 vẫn bị khóa trên xe taxi. N lấy và xóa hết tin nhắn, lịch sử cuộc gọi giữa anh T2 và L trên điện thoại của anh T2. Q kiểm tra ví của anh T2 và giữ lại ví, thẻ ATM, CMND còn số tiền 2.700.000 đồng Q trả lại cho anh T2. Sau đó, N, Đ và Q đưa anh T2 xuống xe, đưa vào nhà vệ sinh. Q dùng còng số 8 khóa tay anh T2, dùng dây trói 2 tay anh T2 ra phía sau, dùng băng dính quấn vào tay, bịt miệng anh T2. N và Đ đi taxi về nhà N, N lấy đoạn dây xích dài khoảng 1,5m rồi đi mua đồ ăn và quay lại nhà kho. N trả tiền và lái xe taxi đi về. L, N, T, Đ, Q và anh T2 ngồi ăn tại kho. Lúc ngồi ăn, Q bảo anh T2 trả tiền cho N thì sẽ được thả. Ăn xong, Q và Đ chuyển anh T2 ra góc kho bên phải, dùng băng dính buộc chân, tay bên trái của anh T2, tay phải vẫn khóa bằng còng số 8 buộc với dây xích vào cột sắt trong kho để anh T2 không trốn hoặc tự tử được. Khoảng 24 giờ ngày 15/01/2019, N, T và L về còn Đ và Q ở lại kho trông giữ anh T2.

    Trưa ngày 16/01/2019, N, T, Đ, Q và L tập trung tại nhà kho. N đưa điện thoại bắt anh T2 gọi về nhà, bảo người nhà chuyển tiền vào tài khoản của anh T2 và rút tiền trả nợ cho N. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Đ gọi anh T1 đến nhà kho đón Đ. N dùng tay đấm vào mắt phải của anh T2, đưa điện thoại bắt anh T2 gọi về nhà, yêu cầu gia đình chuyển 150.000.000 đồng vào tài khoản của anh T2. Anh T2 gọi cho vợ cũ là chị Đàm Thị Phương L1, nói việc bị bắt giữ vì nợ tiền và nhờ chị Đàm Thị Phương L1 sang nhà bảo bố mẹ anh T2 đi vay tiền chuyển vào tài khoản của anh T2 thì anh mới được thả. Do đã ly hôn nên chị Đàm Thị Phương L1 không làm theo lời anh T2. Anh T2 gọi cho cô ruột là bà Lưu Thị L2, nói đang nợ tiền, bị bắt, đánh, trói và bảo bà L2 nhắn bố mẹ anh T2 vay tiền cứu anh. Bà L2 đến nhà thông báo nhưng bố mẹ anh T2 không có tiền gửi. Anh T2 gọi cho bạn là Hoàng Thị L3, nói nợ tiền và đang bị giữ ở Bắc Ninh, nhờ chị L3 chuyển tiền để anh được thả về.

    Khoảng 14 giờ ngày 16/01/2019, không thấy người nhà anh T2 chuyển tiền nên Q dùng điếu cày đánh anh T2. N cầm bình cứu hỏa ném về phía anh T2, dùng chân đạp anh T2. Tối cùng ngày, L thuê taxi về Hà Nội; N mượn xe ô tô cùng Đ, T đưa anh T2 về phòng trọ của Q. Q lấy dây xích trói anh T2 vào chân giường. Đ, T về.

    Q giữ anh T2 từ ngày 17/01/2019 đến sáng ngày 18/01/2019. Ở phòng trọ của Q, anh T2 nhờ N chụp ảnh anh T2 bị đánh và trói gửi cho chị Hoàng Thị L3 và gọi cho chị Lưu Thị H (chị họ của anh T2) để gia đình anh T2 tin và chuyển tiền vào tài khoản của anh T2 để trả nợ cho N. N bảo anh T2 nói với chị H, nếu không chuyển tiền trả nợ thì N chặt tay anh T2 nên chị H đồng ý lo tiền chuộc, trả nợ cho anh T2.

    Khoảng 01 giờ ngày 19/01/2019, T1 chở Q, Đ, anh T2 ra nghĩa trang thôn T, xã YT, huyện YP. Q và Đ dọa đốt anh T2. Sau đó, T1 lái xe chở Q, Đ, anh T2 đến quán karaoke ở thôn ẤĐ, xã YT, huyện YP. Q đưa anh T2 lên phòng 701 và trông giữ anh T2, Đ và T1 đi về. Khoảng 08 giờ ngày 19/01/2019, Đ đến thay Q trông giữ anh T2. Đ bắt anh T2 gọi điện về nhà yêu cầu chuyển tiền và kiểm tra tài khoản của anh T2 thì thấy có 38.928.049 đồng, trong đó: tiền có sẵn trong tài khoản là 23.928.049 đồng, tiền chị Lưu Thị H chuyển hồi 10 giờ 12 phút ngày 19/01/2019 là 10.000.000 đồng và hồi 10 giờ 30 phút ngày 19/01/2019 là 5.000.000 đồng.

    Khoảng 11 giờ ngày 19/01/2019, Đ đưa anh T2 đến trụ sở Công an đầu thú. Sau đó, T1, N, T, Đ đi đầu thú. Ngày 19/02/2019, Q ra đầu thú. Ngày 21/02/2019, L ra đầu thú.

    Nội dung của Án lệ:

     “[7] Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh Lưu Mạnh T nhằm gây áp lực để T phải gọi cho gia đình, người thân chuyển số tiền 150.000.000 đồng mà anh T đã vay của Trần Văn N vào tài khoản của anh T, trả nợ cho N thì anh T mới được thả về. Như vậy, mục đích của chuỗi hành vi bắt giữ, trói, nhất, đánh anh T mà các bị cáo thực hiện là nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh T. Việc chị Lưu Thị H (chị họ của anh T) mới chuyển vào tài khoản của anh T 02 lần với tổng số tiền là 15.000.000 đồng và trong tài khoản của anh T có sẵn 23.928.049 đồng nhưng các bị cáo chưa buộc anh T rút số tiền này để đưa cho các bị cáo, không làm thay đổi mục đích chiếm đoạt ban đầu của các bị cáo là 150.000.000 đồng.

    [8] Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền 150.000.000 đồng là mục đích chiếm đoạt của các bị cáo từ khi bắt đầu việc bắt giữ anh Lưu Mạnh T. Các bị cáo phải bị xét xử về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" với tình tiết định khung hình phạt “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng" được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự."

    “[12] Trong vụ án này, bị cáo Trần Văn N là người khởi xướng; trực tiếp rủ các bị cáo khác (Q, Đ, L, T1, T2) tham gia việc bắt giữ anh Lưu Mạnh T nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng mà anh T vay của N; trực tiếp chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội như công số 8, dây trói, xịt hơi cay ...; là người lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác từ việc dùng zalo của bị cáo L mạo danh để kết bạn, rủ anh T từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, chọn địa điểm đón anh T (sân bay Nội Bài), phân công L đi đón anh T, chọn địa điểm, thời gian để xe taxi chở L và anh T phải tạm dừng dọc đường để xe taxi chở N và đồng bọn tiếp cận, bắt giữ anh T, chọn địa điểm nhất anh T, phân công người trông giữ anh T ... do vậy, N là người tổ chức, cầm đầu, chủ mưu. Các bị cáo khác là người thực hành, giúp sức tích cực cho N trong kế hoạch bắt giữ anh T nhằm gây áp lực để gia đình anh T phải chuyển tiền theo yêu cầu của N vào tài khoản của anh T từ đó chiếm đoạt số tiền này, cấn trừ khoản nợ mà anh T đã vay của N trước đó. Giữa N và các bị cáo khác có sự cấu kết chặt chẽ, các bị cáo khác đều thực hiện nhất quán theo sự chỉ đạo của N. Hành vi bắt giữ, trói, nhất, đánh anh T nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh T của các bị cáo kéo dài từ ngày 12/01/2019 đến ngày 19/01/2019. Do đó, hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của phạm tội “có tổ chức" quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.

    [13] Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử các bị cáo với tình tiết định khung tăng nặng “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng" ở điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự mà chưa xem xét tình tiết định khung tăng nặng "có tổ chức" như phân tích ở trên là thiếu sót.

    [14] Việc Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức " quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, cần được chấp nhận."

    Như vậy, trường hợp bị cáo đã lên kế hoạch, chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội để bắt cóc bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản, thì trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản". Tòa án phải căn cứ vào giá trị tài sản bị cáo dự định chiếm đoạt để định khung hình phạt.

    Trường hợp, trong số các bị cáo có bị cáo là người cầm đầu, khởi xướng, trực tiếp rủi các bị cáo khác tham gia việc bắt giữ bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản, lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác; giữa các bị cáo có sự cấu kết chặt chẽ, thực hiện hành vi nhất quán theo sự chỉ đạo của bị cáo cầm đầu, thì các bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" với tỉnh tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

     
    276 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận