THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ THI HÀNH ÁN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA

Chủ đề   RSS   
  • #302063 13/12/2013

    tuannhica

    Male
    Mầm

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:11/12/2013
    Tổng số bài viết (41)
    Số điểm: 635
    Cảm ơn: 24
    Được cảm ơn 2 lần


    THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ THI HÀNH ÁN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA

     

     

    Việc bồi thường thiệt hại đối với người bị thiệt hại trong các quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trong quan hệ về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nói riêng là nhằm khắc phục thiệt hại, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra là một trách nhiệm có nguồn gốc đạo lý và pháp lý :

    Về phương diện đạo lý, việc bồi thường thiệt hại là bổn phận đạo đức của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản. Về phương diện pháp lý, bồi thường thiệt hại là một nghĩa vụ phải làm một công việc (bồi thường) của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản được nhà lập pháp ấn định trong luật và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Trong xã hội văn minh ngày nay, người bị thiệt hại không có quyền tự xử bằng sức mạnh để đạt được sự bồi thường các thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Họ chỉ có thể sử dụng các phương tiện hợp pháp được nhà lập pháp trao cho để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình : Thoả thuận với người gây thiệt hại về việc bồi thường thiệt hại bằng con đường thương lượng dân sự hoặc cầu viện tới công lý để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Việc khởi kiện trước Toà án (1) và yêu cầu cơ quan thi hành án nhà nước cưỡng chế thi hành phán quyết (2) là một phương thức quan trọng để người bị thiệt hại bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

    1. Việc kiện đòi bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra và thủ tục tố tụng trước Toà án

    Trong phần này chúng ta làm rõ một số vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng tại Toà án như ai có thể thực hiện việc khởi kiện, có thể kiện ai ; kiện ở Toà án nào ; điều kiện hành xử quyền khởi kiện ; việc chứng minh trước Toà án và xác định luật áp dụng trong vụ kiện.

    1.1. Việc xác định tư cách đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

     

    Vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là xác định ai là người có thể thực hiện việc kiện, có thể kiện ai và kiện về vấn đề gì ? Theo logic thì để trả lời câu hỏi này, ta có thể đi theo một suy lý ngược : Việc kiện về vấn đề gì sẽ quyết định ai có thể thực hiện quyền kiện và việc kiện đó được thực hiện đối với chủ thể nào. Có nghĩa là dựa trên tính chất của vụ kiện hay quan hệ pháp luật có tranh chấp để xác định người có quyền khởi kiện và người có thể bị kiện.

    Ở Việt Nam, người ta thường đề cập đến hai phương thức kiện để bảo vệ quyền lợi trước Toà án là kiện vật quyền và kiện trái quyền. Theo một số nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp, đối với kiện trái quyền, tư cách nguyên đơn chỉ thuộc về chủ thể có quyền và tư cách bị đơn thuộc về chủ thể có nghĩa vụ, trong khi đó, đối với kiện vật quyền chỉ có thể đệ đơn bởi người cho rằng mình thực thụ có một quyền lợi đối vật, tố quyền này có thể được hành xử để chống lại tất cả các chủ thể có tranh chấp về sự hiện hữu của quyền đối vật[1]. Theo học thuyết về tố quyền của Pháp thì tố quyền đối nhân chỉ có thể do trái chủ hoặc những người kế thừa quyền của họ thực hiện và chỉ được sử dụng đối với một số người hạn chế, là các chủ thể có nghĩa vụ và những người kế thừa nghĩa vụ của họ[2].

    Về phương diện lý luận, góc nhìn này thực sự có giá trị tham khảo trong việc xác định người có quyền khởi kiện và tư cách đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Cơ sở của tố quyền đối nhân chính là quan hệ về nghĩa vụ, mà trong đó bên có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ của mình dẫn tới bên chủ thể có quyền phải cầu viện tới sự can thiệp của công lý để buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành nghĩa vụ của họ. Khi thực hiện tố quyền đối nhân, việc kiện của người có quyền nhằm hướng tới hành vi thi hành nghĩa vụ của chính bản thân người có nghĩa vụ, cho nên việc kiện này còn gọi là kiện trái quyền. Như vậy, căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, có thể xác định được chủ thể có quyền lợi và chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Đây chính là cơ sở để xác định người có quyền khởi kiện và người bị kiện : Người có quyền khởi kiện là người có quyền lợi bị thiệt hại và người có thể bị kiện phải là người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự.

    Thực tiễn giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ trước tới nay vẫn đi theo nguyên lý này. Theo đường lối xét xử về dân sự của Toà án nhân dân tối cao trước đây thì, « Địa vị tố tụng của mỗi đương sự trong một vụ kiện phản ánh quan hệ giữa các đương sự với nhau trong một quan hệ pháp luật nhất định nào đó: người có quyền lợi bị xâm phạm ra trước Toà án với tư cách là nguyên đơn và người có nghĩa vụ liên quan hoặc phải chịu trách nhiệm tham gia vụ kiện ở vị trí bị đơn »[3].

    Về lý luận, trong các quan hệ về tài sản, do tính chất đối nhân của nghĩa vụ nên bên có nghĩa vụ không thể tự ý thay đổi chủ thể của quan hệ nghĩa vụ. Về nguyên tắc chủ thể có quyền lợi trong vụ kiện đã thực hiện việc khởi kiện hay được người khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho họ được coi là nguyên đơn. Người khởi kiện để bảo vệ quyền lợi ích của người khác, tuỳ trường hợp sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật hay đại diện theo uỷ quyền. Tuy nhiên, cần phải xét tới các trường hợp ngoại lệ, liên quan tới việc chuyển quyền theo quy định của pháp luật dân sự. Pháp luật cho phép bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu và có thể đứng đơn kiện với tư cách là nguyên đơn dân sự để yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.

    Bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn định những trường hợp, theo đó chỉ những chủ thể nhất định mới có quyền yêu cầu người gây thiệt hại thực hiện nghĩa vụ bồi thường và chỉ có những chủ thể này mới có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn. Cụ thể là đối với các yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do xâm phạm đến tính mạng thì chỉ những người sau đây mới có thể khởi kiện : Người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (Điều 309, 609, 610 BLDS).

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 610 BLDS thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vấn đề đặt ra là đối với các thiệt hại vật chất do tính mạng bị xâm phạm này thì ai sẽ là người có quyền khởi kiện. Có thể nhận thấy đối với khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng thì chính những người có quyền cấp dưỡng (hoặc người đại diện hợp pháp của họ) có thể đứng đơn kiện. Nếu dùng phương pháp loại trừ thì ta cần phải xác định ai là chủ thể có quyền khởi kiện để đòi các khoản bồi thường là chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng. Về nguyên tắc, thì người có quyền kiện với tư cách là nguyên đơn để đòi những khoản tiền này là người thực tế đã bỏ tiền ra để chi phí cho người bị thiệt hại đã chết. Tuy nhiên, xét về thực tế thì thông thường những người thân thích là người thừa kế theo pháp luật của nạn nhân chính là những người đã bỏ tiền ra để chi phí nhằm khắc phục thiệt hại, do vậy, những chủ thể này có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn. Như vậy, theo suy luận logic trong trường hợp tính mạng bị xâm hại thì phạm vi những người có quyền khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất có thể rộng hơn phạm vi những người có quyền khởi kiện để yêu cầu bù đắp những tổn thất về tinh thần.

    Theo phân tích ở trên, người cho rằng mình có quyền lợi bị tranh chấp hay vi phạm có quyền khởi kiện nhưng không có nghĩa là họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai. Việc kiện của nguyên đơn, giả thiết của họ về ai là người xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải dựa trên cơ sở một quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, căn cứ vào các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật này để xác định người mà họ có quyền đi kiện. Thế nhưng theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì, « Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm » (khoản 3 Điều 56 BLTTDS 2004). Như vậy, nhà lập pháp dường như đã đồng nhất bị đơn với người bị kiện. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn khi quan niệm rằng bị đơn trong vụ án dân sự là người bị khởi kiện do giả thiết đã xâm phạm tới quyền lợi của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Tuy vic kiện của nguyên đơn chỉ là một suy đoán về việc người bị kiện có hành vi trái pháp luật hay trách nhiệm nhưng suy đoán đó không phải là một giả tưởngphải là một suy đoán có căn cứ dựa trên cơ sở pháp luật.

    Trong thực tiễn tố tụng dân sự Việt Nam, đôi khi do trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên người đi kiện đã xác định và khởi kiện không đúng người mà mình có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, người bị thiệt hại kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nhưng lại khởi kiện người không có trách nhiệm phải bồi thường. Trong những trường hợp đặc biệt này, với tư cách là cơ quan bảo vệ công lý và cầm cân nảy mực thì vai trò đôn đốc và hướng dẫn thủ tục tố tụng của Toà án là hết sức cần thiết. Khi nhận đơn khởi kiện thì bên cạnh việc kiểm tra các điều kiện thụ lý, Toà án có thể định hướng cho nguyên đơn xác định lại chủ thể mà họ có quyền khởi kiện.

    Đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì người bị thiệt hại phải khởi kiện người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự và trong trường hợp này người bị khởi kiện là bị đơn. Đối với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới thì bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Điều 298 BLDS). Trong trường hợp này, bị đơn trong vụ kiện là một trong số những người có nghĩa vụ liên đới bị nguyên đơn khởi kiện, những người có nghĩa vụ liên đới còn lại sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

    Việc xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường phải căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự đối với từng trường hợp cụ thể. Riêng đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định người có trách nhiệm trong quan hệ bồi thường và tư cách bị đơn sẽ thuộc về người có trách nhiệm bồi thường bị khởi kiện[4].

    Theo Điều 626 BLDS thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 200 BLDS thì rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Như vậy, xét về logic đối với thiệt hại do cây rừng đổ, gẫy gây ra thì Nhà nước phải bồi thường. Xét về thực tế, thì vấn đề đặt ra là người bị thiệt hại có thể khởi kiện ai: cơ quan quản lý (UBND tỉnh hay huyện) nơi có rừng hay chủ thể bị khởi kiện là Nhà nước. Tương tự như vậy, đối với thiệt hại do cây cối đổ, gẫy tại các khu vực công cộng nơi đô thị gây ra thì công ty công viên cây xanh có phải là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không cũng là một vấn đề cần được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự.

    Điều 627 BLDS quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác. Như vậy, đối với các công trình xây dựng như cột điện (thiệt hại do đường dây tải điện gây ra sẽ áp dụng Điều 623 BLDS), các hố ga, cống ngầm …hư hỏng dẫn tới tai nạn gây thiệt hại cho người tham gia giao thông thì về nguyên tắc người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu cơ quan điện lực, cơ quan quản lý các công trình giao thông công chính bồi thường thiệt hại.

    1.2. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện

    - Về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp Toà án:

    Thông thường, các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, đối với những việc nêu trên nếu có một bên đương sự đang ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì người bị thiệt hại phải yêu cầu Toà án cấp tỉnh thụ lý giải quyết (các điều 33, 34 BLTTDS).

    Trên thực tế, Toà án nhân dân tối cao dường như đã hướng dẫn vận dụng một cách linh hoạt các quy định của BLTTDS về thẩm quyền sơ thẩm của Toà án các cấp. Nghị quyết số 01 ngày 31 tháng 3 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã có những hướng dẫn về việc không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Toà án. Theo đó, đối với vụ việc dân sự đã được Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nhưng trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì Toà án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó. Đối với vụ việc dân sự đã được Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì Toà án cấp tỉnh đã thụ lý có thẩm quyền tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.

    - Về thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ:

    Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản, đối với các việc kiện không phải là tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn. Như vậy, về nguyên tắc đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu các đương sự có thoả thuận với nhau bằng văn bản thì cũng có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức (Điều 35 BLTTDS).

    Bên cạnh đó, nhà lập pháp cũng đã quy định về quyền lựa chọn của nguyên đơn trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà không cần sự đồng thuận của người bị kiện. Cụ thể như sau:

    Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì “ Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết”. Có thể nhận xét rằng, nhà lập pháp đương đại dường như đã mở rộng hơn quyền lựa chọn của người bị thiệt hại trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Trước đây, quy định này chỉ được áp dụng riêng biệt cho các yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, còn đối với các trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra nhưng không phải là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ thì người bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của bị đơn giải quyết[5].

    Theo luật thực định nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới, do tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người hoặc chủ sở hữu và người chiếm hữu cùng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại…thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Điểm h Khoản 1 Điều 36 BLTTDS quy định “Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”.

    Như vậy, tuỳ theo trường hợp mà Toà án có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết việc kiện bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là Toà án nơi bị đơn, Toà án nơi nguyên đơn hoặc Toà án nơi xảy ra thiệt hại. Để xác định nơi cư trú của cá nhân là nguyên đơn hay bị đơn trong vụ kiện, cần căn cứ vào các quy định của BLDS (từ Điều 52 tới Điều 57) và quy định của Luật cư trú 2006 (Điều 12 tới Điều 17).

    1.3. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện

    - Về thời hiệu khởi kiện:

    Trước đây, đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện nên trong thực tế các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không bị giới hạn về thời gian khởi kiện. Thế nhưng, hiện nay theo Điều 607 BLDS thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chỉ rõ hai mốc thời gian để xác định thời hạn hai năm nói trên. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 1/1/2005.

    Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm là ngày nào: Ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày mà quyền được bồi thường của người bị thiệt hại không được bên gây thiệt hại đáp ứng. Trước hết, chúng ta nhận thấy là bên cạnh nguyên tắc về thời hiệu theo Điều 607 BLDS thì các quy định mang tính ngoại lệ cho việc xác định thời hiệu khởi kiện như quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện (Đ. 161 BLDS), bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện (Đ. 162 BLDS) cũng cần phải được áp dụng.

    Thế nhưng, theo quy định tại Điều 612 BLDS về thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm thì trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết” và nếu người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:

    - Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

    - Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

    Như vậy, nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày xảy ra thiệt hại mà họ không khởi kiện thì họ có mất quyền khởi kiện hay không ? Nếu quan niệm người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện nữa thì dường như mâu thuẫn với quy định “người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”. Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng người bị thiệt hại chỉ được hưởng bồi thường cho đến khi chết nếu đã khởi kiện khi sự việc còn thời hiệu khởi kiện, ngược lại nếu không khởi kiện trong thời hạn đó thì sẽ không được hưởng bồi thường. Nếu giải thích theo hướng này thì quả thực rất bất lợi cho người bị thiệt hại. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng khi hết thời hạn 2 năm kể từ ngày kết thúc việc điều trị người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện với các khoản chi phí để điều trị nhằm khắc phục thiệt hại, còn đối với các khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút sau khi điều trị thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính theo định kỳ hàng tháng đối với từng khoản thu nhập.

    Ngoài ra, trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì cần vận dụng các quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo Khoản 2 Điều 161 BLDS “Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự” để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống.

    Như vậy, cần phải có những hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng các quy định của BLDS về thời hiệu khởi kiện trong các vụ việc về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại.

    - Về trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án

    Về nguyên tắc thì Toà án không thụ lý đối với các trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 168 BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện thì Toà án trả lại đơn khởi kiện nếu sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, trừ trường hợp vụ án thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại …Như vậy, nếu vận dụng các quy định này thì mặc dù trước đó người bị thiệt hại đã khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại và Toà án đã giải quyết nhưng sau đó đương sự vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường nếu điều kiện sống thay đổi hoặc bệnh tật tái phát làm phát sinh những khoản chi phí mới để điều trị và bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ.

    1.4. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng

    - Về vấn đề chứng minh

    Khi thực hiện việc khởi kiện trước Toà án để yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì về nguyên tắc người khởi kiện phải có trách nhiệm dẫn chứng các giấy tờ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn nếu có yêu cầu phản tố cũng có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng minh.

    Trong việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì các chứng cứ tài liệu được cung cấp là để làm rõ những vấn đề sau đây:

    - Có thiệt hại thực tế xảy ra hay không và mức độ thiệt hại

    - Người bị khởi kiện có để tài sản gây thiệt hại hay không? ( tức là có sự kiện gây thiệt hai trái pháp luật ).

    - Mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại và thiệt hại thực tế xảy ra

    - Lỗi của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại

    Bốn yếu tố này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, người bị khởi kiện có thể dẫn chứng những tài liệu để phản bác lại yêu cầu khởi kiện như chứng minh thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.

    Về nguyên tắc, các tình tiết được sử dụng để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ kiện đều phải được Toà án chứng minh bằng các chứng cứ đã được thẩm tra về độ tin cậy và giá trị chứng minh của chúng. Tuy nhiên, nhà lập pháp cũng quy định một số tình tiết Toà án có thể sử dụng ngay để giải quyết vụ kiện mà không cần phải chứng minh. Theo quy định tại Điều 80 BLTTDS thì những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án thừa nhận; những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

    Thông thường trong thực tiễn, đối với các trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khoẻ người khác nếu đã có bản án hình sự đã có hiệu lực của Toà án khẳng định chủ thể gây thiệt hại, lỗi của họ thì khi xử về dân sự Toà án có thể sử dụng ngay kết luận của bản án hình sự mà không cần tìm kiếm các chứng cứ khác để chứng minh hành vi trái pháp luật, lỗi của người bị kiện. Trong những trường hợp này việc chứng minh chỉ tập trung vào xác định thiệt hại thực tế phát sinh từ việc gây thiệt hại.

    Trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, người bị thiệt hại có thể cung cấp cho Toà án những tài liệu, hoá đơn, chứng từ để chứng minh thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Thế nhưng trách nhiệm của Toà án là phải thẩm định lại tính xác thực và độ tin cậy của những tài liệu này. Trong trường hợp cần thiết Toà án có thể tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn (ý kiến của bác sĩ điều trị, hội đồng giám định y khoa đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; kết luận giám định về nguyên nhân lún nứt công trình xây dựng, về chi phí thực tế bỏ ra để phục hồi nguyên trạng tài sản…) hoặc tham khảo ý kiến của cơ quan nơi người lao động làm việc để xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Bên cạnh các tài liệu viết, Toà án cũng cần tiến hành xem xét trên thực địa; đối chiếu với lời khai của người làm chứng để thẩm tra lại các tài liệu có trong hồ sơ.

    - Về xác định luật áp dụng

    Về nguyên tắc, trước hết Toà án phải căn cứ vào các quy định mang tính nguyên tắc, bao gồm quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (các điều từ 604 đến 607 BLDS) và các quy định về xác định thiệt hại (các điều từ 608 đến 612 BLDS) để áp dụng giải quyết. Tuy nhiên, nhà lập pháp cũng đã dự liệu việc bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể như bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), do súc vật gây ra (Điều 625), do cây cối gây ra (Điều 626), do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 627). Đối với các trường hợp này Toà án cần căn cứ vào cả các quy định mang tính nguyên tắc và các quy định riêng biệt cho từng loại vụ kiện cụ thể để giải quyết.

    Trong thực tiễn, cũng nảy sinh các trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra nhưng không thuộc các trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể đã được nhà lập pháp ấn định. Trong những trường hợp này, Toà án sẽ áp dụng quy định nào để giải quyết cũng là một vướng mắc và việc vận dụng trong thực tiễn là không thống nhất. Thiết nghĩ, trước hết các quy định mang tính nguyên tắc từ Điều 604 tới Điều 612 BLDS cần được tham chiếu. Bên cạnh đó, cần phải lưu ý tới các quy định tại Điều 3 BLDS về áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật. Chẳng hạn, trong BLDS có quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) nhưng nếu là thiệt hại do những vật nuôi khác gây ra thì có thể vận dụng quy định tại Điều 3 và Điều 625 BLDS để giải quyết.

    2. Vấn đề thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra

    Sau khi có bản án của Toà án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường, về nguyên tắc trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị thiệt hại phải làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành án. Vấn đề đặt ra là để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại do tài sản gây ra cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nào?

    Xét về bản chất, việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án về bồi thường thiệt do tài sản gây ra thuộc trường hợp thi hành nghĩa vụ trả tiền. Do vậy, nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây: Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án. Trong phần này chúng ta sẽ lần lượt làm rõ điều kiện, thủ tục áp dụng ba biện pháp cưỡng chế nói trên.

    2.1. Biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án

    Biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một trong ba biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền. Xét về nguyên tắc thì trong trường hợp người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì biện pháp cưỡng chế này sẽ là biện pháp cưỡng chế đầu tiên được áp dụng. Chấp hành viên chỉ áp dụng biện pháp kê biên tài sản hoặc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án nếu người phải thi hành án không có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá để thi hành án.

    - Điều kiện áp dụng

    * Theo bản án, quyết định của Tòa án thì người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

    * Có căn cứ để xác định người phải thi hành án có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá. Hiện nay, pháp luật không có những quy định cụ thể nhưng về phương diện lý luận cần phải hiểu rằng ngoài trường hợp người phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng thì biện pháp cưỡng chế này còn được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có tiền, giấy tờ có giá và bản thân họ đang giữ các tài sản này hoặc đang do người thứ ba giữ.

    Chỉ sau khi xác minh người phải thi hành án có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá thì Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Giấy tờ có giá có thể là cổ phiếu, trái phiếu (như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, trái phiếu ngoại tệ), công trái, thương phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định còn giá trị thanh toán (Luật Ngân hàng, Quyết định số 94/2004/QĐ-NHNN ngày 20/01/2004 và Quyết định số 1022/2004/QĐ-NHNN ngày 17/8/2004).

    * Hết thời gian tự nguyện đã được Chấp hành viên ấn định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.

    - Thủ tục áp dụng:

    Trước khi ra quyết định khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng. Ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước phải cung cấp các thông tin cần thiết về tiền gửi, tài khoản, giấy tờ có giá của người phải thi hành án cho Chấp hành viên (Khoản 4 Điều 14 PLTHADS 2004).

    Nếu xác định người phải thi hành án có tiền gửi hoặc có tiền trong tài khoản, giấy tờ có giá tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc thì Chấp hành viên lập biên bản về tình trạng tài khoản, tiền gửi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án có tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng và ra quyết định khấu trừ tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án để thi hành án.

    Sau khi ra quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên trực tiếp gửi ngay quyết định đó cho Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng đang giữ tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án và yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, tổ chức này thực hiện quyết định của cơ quan thi hành án. Khi nhận được quyết định của Chấp hành viên về khấu trừ vào tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án đang gửi ở Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng thì Thủ trưởng cơ quan này có trách nhiệm khấu trừ ngay từ tiền gửi, tài khoản, giấy tờ có giá của người phải thi hành án để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án, sau đó cơ quan thi hành án chi trả cho người được thi hành án theo quy định, trừ trường hợp cần chuyển thẳng tới cho người được thi hành án theo quyết định của cơ quan thi hành án.

    Đối với các khoản tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án mà họ đang giữ hoặc do người thứ ba (không phải là Ngân hàng, tổ chức tín dụng, Kho bạc giữ) thì Chấp hành viên lập biên bản thu giữ số tiền, giấy tờ có giá tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án đồng thời ra quyết định trừ vào tiền hoặc thu hồi giấy tờ có giá để thi hành án.

    Theo nguyên tắc chung của việc cưỡng chế thi hành án thì mức khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án để thi hành án. Mặc dù pháp luật không có quy định cụ thể về việc để lại cho người phải thi hành án một khoản tiền tối thiểu khi áp dụng biện pháp cưỡng chế này nhưng thiết nghĩ, đối với người phải thi hành án mặc dù có tiền, giấy tờ có giá nhưng lại không có thu nhập khác để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình (Chẳng hạn mặc dù có một khoản tiền tiết kiệm, tiền gửi ở Ngân hàng, có cổ phần ở công ty nhưng lợi nhuận thu được từ các nguồn này lại là thu nhập chính của họ để duy trì cuộc sống…) thì khi khấu trừ tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của người phải thi hành án mà Chấp hành viên để lại cho họ một khoản tiền nhất định để bảo đảm điều kiện sống tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Đây là một vấn đề thể hiện tính nhân đạo của pháp luật và phù hợp với đạo lý của con người Việt Nam chúng ta.

    2.2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

    Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do Chấp hành viên áp dụng khi người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có thu nhập mà không tự nguyện thi hành án. Biện pháp này được áp dụng trong các trường hợp thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo định kỳ hoặc khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án; bản án, quyết định của toà án ấn định biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; do các bên thoả thuận.

    Như vậy, đối với việc thi hành án bản án buộc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì biện pháp này có thể áp dụng đối với việc thi hành các khoản về cấp dưỡng hàng tháng, các khoản thu nhập bị giảm sút phải bồi thường theo định kỳ hoặc trường hợp đã kê biên những tài sản khác của người phải thi hành án mà vẫn không đủ để thi hành án.

    - Điều kiện áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

    * Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Tuy nhiên, khác với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền khác (biện pháp trừ vào tài khoản, tiền, giấy tờ có giá; kê biên và bán tài sản của người phải thi hành án), biện pháp trừ vào thu nhập thường được áp dụng khi các khoản tiền mà người phải thi hành án phải thực hiện là các khoản phải cấp dưỡng, phải trả theo định kỳ hoặc khoản tiền phải thi hành án không lớn.

    * Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án nếu có căn cứ xác định người phải thi hành án có thu nhập để khấu trừ.

    - Thủ tục áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

    * Trước khi tiến hành áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Cụ thể là Chấp hành viên phải tiến hành xác minh xem người phải thi hành án có thu nhập hay không và mức thu nhập là bao nhiêu ?

    * Khi xác định người phải thi hành án có thu nhập để khấu trừ, Chấp hành viên sẽ ra quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Quyết định này phải được gửi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập của người phải thi hành án.

    * Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập của người phải thi hành án sau khi nhận được quyết định phải có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án. Trong thời hạn không quá 7 ngày làm việc, kể từ ngày khấu trừ thu nhập, cơ quan, tổ chức, cá nhân nói trên có nghĩa vụ chuyển cho cơ quan thi hành án số tiền đó để chi trả cho người được thi hành án.

    - Mức trừ vào thu nhập

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 40 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 thì mức cao nhất được trừ vào lương là 30% số lương hàng tháng. Đối với những khoản thu nhập khác thì mức trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải bảo đảm điều kiện sống tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng được căn cứ vào điều kiện cụ thể từng địa phương nơi họ sinh sống (khoản 1 Điều 20 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004).

    2.3. Kê biên, bán tài sản của người phải thi hành án

    Kê biên tài sản của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do Chấp hành viên áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản.

    - Điều kiện để áp dụng biện pháp kê biên tài sản

    * Theo bản án, quyết định, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại

    * Người phải thi hành án có tài sản để thi hành án:

    Tài sản này có thể là tài sản riêng của người phải thi hành án nhưng cũng có thể là tài sản chung với người khác, tài sản này có thể đang do người phải thi hành án hoặc người thứ ba giữ. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản với biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án là trong trường hợp này người phải thi hành án có tài sản để thi hành án nhưng tài sản này không phải là tiền, các giấy tờ có thể trị giá được bằng tiền mà là động sản hoặc bất động sản khác thuộc sở hữu riêng của người phải thi hành án hoặc sở hữu chung với người khác.

    * Hết thời gian tự nguyện đã được ấn định nhưng không tự nguyện thi hành, hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng để ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản

    - Nguyên tắc kê biên tài sản

    Khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc chung về việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế, Chấp hành viên phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

    * Mọi tài sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên, phong toả để đảm bảo thi hành án, bao gồm tài sản thuộc sở hữu riêng, tài sản thuộc sở hữu chung với người khác, kể cả quyền sử dụng đất hoặc tài sản đang do người khác giữ.

    * Người phải thi hành án có quyền thoả thuận với người được thi hành án tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án. Nếu không thoả thuận được người phải thi hành án có quyền đề nghị kê biên tài sản nào trước, Chấp hành viên phải chấp nhận nếu xét thấy việc đề nghị đó không cản trở việc thi hành án.

    * Nếu người phải thi hành án không đề nghị kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc sở hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước. Trong trường hợp người phải thi hành án không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên mới được kê biên phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung với người khác.

    * Kê biên quyền sử dụng đất, nhà ở, trụ sở của người phải thi hành án chỉ được tiến hành khi những tài sản khác không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đề nghị kê biên những tài sản này.

    * Chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án đủ để đảm bảo thi hành án và thanh toán các chi phí thi hành án. Trong trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn mức phải thi hành án mà không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó để đảm bảo thi hành án.

    * Đối với tài sản của người phải thi hành án đang được thế chấp, cầm cố hợp pháp, nếu người phải thi hành án không còn tài sản nào khác mà tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị lớn hơn nghĩa vụ đã được bảo đảm theo hợp đồng thế chấp, cầm cố, kể cả các chi phí liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố cộng với chi phí cho việc kê biên, bán đấu giá tài sản, thì chấp hành viên vẫn kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án mặc dù hợp đồng thế chấp, cầm cố chưa đến hạn, nhưng trước khi kê biên tài sản Chấp hành viên phải thông báo cho người nhận thế chấp, cầm cố biết về việc kê biên.

    - Những tài sản không được kê biên

    Về nguyên tắc, mọi tài sản của người có nghĩa vụ phải bồi thường theo bản án đều có thể bị kê biên và bán đấu giá để bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, với mục đích nhân đạo, đảm bảo cuộc sống bình thường của người phải thi hành án nhà lập pháp cũng đã quy định những loại tài sản của người phải thi hành án mà Chấp hành viên không được kê biên. Xét theo luật thực định (Điều 42 PLTHADS 2004) và thực tiễn thi hành án thì những loại tài sản không được kê biên được xác định tuỳ theo người phải thi hành án về bồi thường là cá nhân hay tổ chức kinh tế.

    * Đối với cá nhân người phải thi hành án, Chấp hành viên không được kê biên những tài sản sau:

    - Lương thực, thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.

    - Công cụ lao động, quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.

    - Đồ thờ cúng thông thường là đồ dùng chỉ được sử dụng vào mục đích thờ cúng theo tập quán ở địa phương.

    * Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ (gọi chung là tổ chức kinh tế) thuộc mọi thành phần kinh tế, Chấp hành viên không được kê biên các tài sản sau đây:

    - Thuốc men chữa bệnh, phương tiện, dụng cụ, tài sản thuộc cơ sở y tế, khám chữa bệnh; lương thực, thực phẩm, dụng cụ, tài sản phục vụ việc ăn giữa ca cho người lao động;

    - Nhà trẻ, trường học và các tài sản thuộc các cơ sở này;

    - Trang thiết bị, phương tiện, công cụ đảm bảo an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống ô nhiễm môi trường;

    - Cơ sở hạ tầng quan trọng phục vụ lợi ích công cộng, an ninh, quốc phòng;

    - Nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm là các hoá chất độc hại nguy hiểm, hoặc tài sản không được phép lưu hành;

    - Số nguyên vật liệu, bán thành phẩm đang nằm trong dây chuyền sản xuất khép kín.

    Trên đây, là kết quả nghiên cứu về một số vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu xung quanh vấn đề này.

     

    L.S Nguyễn Văn Tuấn

    ĐC: Số 26/ 16 Phan Văn Trường, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội

    Tel: 0985 928 544

     

     

     
    7262 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #302065   13/12/2013

    tuannhica
    tuannhica

    Male
    Mầm

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:11/12/2013
    Tổng số bài viết (41)
    Số điểm: 635
    Cảm ơn: 24
    Được cảm ơn 2 lần


    BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG GÂY RA

     

     

    1. Khái quát chung về tài sản và quyền sở hữu tài sản của vợ chồng

    Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, tài sản của vợ, chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Căn cứ để phân định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là dựa vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý về thời kỳ hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp luật. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trong các trường hợp mà pháp luật quy định. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với mỗi loại tài sản cũng được ghi nhận cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền tài sản cho các bên vợ chồng. Chính vì vậy, các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản này có ý nghĩa lý luận thực và tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, tài sản của vợ chồng không chỉ liên quan đến quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng mà trong nhiều trường hợp còn liên quan đến lợi ích của người thứ ba. Vì vậy, xác định trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong những trường hợp cụ thể liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng nhằm ổn định quan hệ hôn nhân, gia đình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người thứ ba.

    Theo quy định của pháp luật hiện hành, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản ( Điều 163, BLDS). Như vậy, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là bất động sản hay động sản…Tất cả các tài sản này dựa vào căn cứ phân định tài sản chung và tài sản riêng; việc xác định được đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác liên quan đến tài sản của vợ chồng.

    Mục đích của các cuộc hôn nhân là vợ chồng cùng hướng tới việc xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc nên xét về bản chất, quan hệ hôn nhân mang tính chất “cộng đồng”. Do tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân nên vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung để xây dựng gia đình và nuôi dạy các con. Vì vậy, khi xác lập quan hệ hôn nhân, vợ, chồng phải có tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung ( Điều 27 Luật HN & GĐ năm 2000). Theo quy định của pháp luật hiện hành, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng tạo ra mà chỉ cần một trong hai bên tạo ra trong thời kỳ hôn nhân cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng; bởi vì tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân luôn thể hiện công sức của người chồng, đã bao hàm công sức của người vợ trong việc tạo ra tài sản. Vì thế, căn cứ tạo lập tài sản chung của vợ chồng thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình. Với ý nghĩa này pháp luật cũng ghi nhận sự bình đẳng của vợ chồng về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.

     

    Bên cạnh tài sản chung của vợ chồng, Luật HN & GĐ hiện hành còn quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm "tài sản mà mỗi bên có từ trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng tư trang cá nhân…"( Điều 32). Việc ghi nhận quyền sở riêng về tài sản của vợ chồng trước hết là sự thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền sở hữu riêng của công dân. Về mt lý luận, điều này hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ, với tư cách là công dân, vợ chồng phải được bảo hộ quyền có tài sản riêng mà Hiến pháp ghi nhận. Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn đời sống hôn nhân, việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là một đòi hỏi khách quan. Bởi lẽ, trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh những mối liên hệ chung, vợ chồng cũng có những mối quan tâm riêng cần phải giải quyết. Do vậy, vợ, chồng sẽ dùng phần tài sản riêng của mình để thỏa mãn những nhu cầu riêng, thực hiện những nghĩa vụ dân sự riêng mà không ảnh hưởng đến chồng hoặc vợ mình. Xét ở phương diện này quy, định về việc vợ, chồng có quyền có tài sản riêng không những không làm mất đi tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân; trái lại, nó còn góp phần củng cố và ổn định quan hệ hôn nhân và gia đình. Ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng cũng thể hiện tính linh hoạt và mềm dẻo của pháp luật hôn nhân và gia đình khi cho phép vợ, chồng tự quyết định số phận pháp lý của tài sản riêng. Vợ, chồng có quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Như vậy, bình thường cuộc sống của vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc thì vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung, tài sản riêng. Trong trường hợp cần thiết phải phân định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng, quy định về căn cứ xác định của các loại tài sản của vợ chồng mới thực sự có ý nghĩa khi giải quyết các tranh chấp.

    Theo quy định của Bộ luật Dân sự, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng của mỗi bên. Theo Luật HN & GĐ, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Do tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân cho nên tài sản chung được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu chung của gia đình, tài sản chung của vợ chồng cũng được sử dụng để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Chính vì vậy, bình thường trong đời sống hôn nhân, việc định đoạt tài sản chung của một bên vợ, chồng vì nhu cầu chung của gia đình được mặc nhiên là có sự thỏa thuận của người kia, trừ trường hợp đặc biệt việc định đoạt liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn thì phải có sự thỏa thuận của vợ chồng( Điều 28 Luật HN & GĐ 2000). Đối với tài sản riêng của vợ, chồng, về nguyên tắc, vợ chồng có quyền định đoạt đối với tài sản riêng, vợ chồng có quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Tuy nhiên, do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân cho nên việc định đoạt tài sản riêng của vợ chồng có thể bị hạn chế, đó là trường hợp tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng ấy vẫn phải có sự thỏa thuận của vợ chồng (theo khoản 5 Điều 33 – Luật HN & GĐ). Vợ, chồng có thể tự mình quản lý, sử dụng hoặc ủy quyền cho chồng, vợ mình quản lý hoặc sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng. Trong trường hợp đó, người vợ, người chồng được ủy quyền quản lý hay sử dụng tài sản chung phải tuân thủ các quy định của pháp luật, thực hiện trách nhiệm trong phạm vi được ủy quyền và trong những trường hợp mà pháp luật quy định; khi vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản riêng mà gây thiệt hại cho người khác, họ có thể phải bồi thường các thiệt hại đã xảy ra. Như vậy, việc xác định rõ tài sản chung và tài sản riêng của vợ hoặc chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu với tài sản của vợ, chồng đồng thời trên cơ sở đó cũng xác định rõ phạm vi quyền năng của sở hữu chủ đối với từng loại tài sản, nhằm xác định trách nhiệm về tài sản của vợ chồng trong những trường hợp cụ thể.

    2. Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra

    2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ, chồng gây ra

    Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra là một dạng của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức cụ thể của trách nhệm dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Luật Dân sự khi được áp dụng thì người có hành vi xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Như vậy, bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại, song là một loại trách nhiệm dân sự đặc biệt. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn phải căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra cần phải được xem xét trên những khía cạnh sau:

    + Thứ nhất: Cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay không, khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại. Điều này được xác định dựa trên các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Cụ thể là phải được xem xét dựa trên các yếu tố: Có thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.

    + Thứ hai: Cần phải xác định, tài sản gây thiệt hại là tài sản cụ thể nào. Vì tính chất đặc thù của trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra, Bộ luật Dân sự đã dự liệu cụ thể những trường hợp tài sản gây thiệt hại và quy định việc bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong những trường hợp cụ thể. Bởi lẽ đó, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra còn phải xem xét cụ thể tài sản đó là tài sản gì, là nguồn nguy hiểm cao độ hay là súc vật, cây cối hoặc là nhà cửa, các công trình xây dựng khác.

    + Thứ ba: Cần phải xác định xem tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của một bên vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng. Chính vì thế, việc xác định một cách chính xác trách nhiệm của vợ chồng đối với việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích về tài sản của vợ chồng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại.

    + Thứ tư, do tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân nên nhiều trường hợp, mặc dù là trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định là của một bên vợ, chồng nhưng bên kia đã tự nguyện dùng tài sản chung của vợ chồng để bồi thường hoặc có khi dùng tài sản riêng của mình để bồi thường cho phía người bị thiệt hại, điều này hoàn toàn được chấp nhận, miễn là thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.

    2.2 Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra trong những trường hợp cụ thể

    2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản của vợ chồng là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” ( Điều 623 Bộ Luật dân sự). Như vậy, với tính chất là “ nguồn nguy hiểm cao độ”, những tài sản này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ đối với đời sống xã hội. Chính vì vậy, người có tài sản phải thực hiện tốt việc bảo quản trông giữ, vận chuyển và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật. Trong truờng hợp tài sản gây thiệt hại cho người khác, chủ sở hữu tài sản được suy đoán là có lỗi. Tuy nhiên, lỗi trong trường hợp này cũng không phải là vấn đề tiên quyết để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vì rằng chủ sở hữu tài sản phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ những trường hợp mà pháp luật quy định. Theo quy định tại khoản 3, Điều 623 Bộ Luật Dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định trước hết là thuộc về chủ sở hữu tài sản. Chính vì vậy khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại cần phân định rõ tài sản gây thiệt hại đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng để xem xét áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    + Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ là tài sản chung của vợ chồng

    Như đã trình bày ở phần trên, theo quy định của Luật Dân sự, trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại trong truờng hợp này được xác định theo nguyên tắc là trách nhiệm thuộc về chủ sở hữu tài sản. Xét dưới góc độ của Luật HN & GĐ, điều này cũng hoàn toàn phù hợp. Bởi vì, đối với tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì vợ, chồng hoàn toàn bình đẳng về căn cứ tạo lập tài sản, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Vì lẽ đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được xác định là trách nhiệm chung của vợ chồng. Vợ chồng phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản chung của mình (Điều 28 – Luật HN & GĐ).

    + Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong truờng hợp tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

    Theo quy định của pháp luật dân sự và Luật HN & GĐ, trước hết xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này thuộc về “chủ sở hữu tài sản”. Như vậy, người vợ, người chồng có tài sản riêng là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác thì phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong đời sồng hôn nhân và gia đình, thiệt hại này cũng có thể được vợ chồng thỏa thuận bồi thường bằng tài sản chung của vợ chồng . Trường hợp tài sản riêng của vợ chồng là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng vợ chồng giao cho người kia chiếm hữu, sử dụng và trong thời gian đó gây thiệt hại cho người khác thì theo quy định của pháp luật dân sự, bên vợ, chồng chiếm hữu, sử dụng tài sản riêng của chồng, vợ có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, khi nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ Luật HN & GĐ, chúng ta nhận thấy, việc vợ chồng giao tài sản riêng của mình cho người kia chiếm hữu, sử dụng là một trường hợp khá đặc thù, thông thường hai bên không có thỏa thuận cụ thể về vấn đề này mà một bên để mặc cho bên kia sử dụng tài sản này vì lợi ích chung. Ví dụ: A và B là vợ chồng, A có một chiếc xe ô tô từ trước khi kết hôn. Sau khi kết hôn, do B phải đi làm xa, cho nên B thường sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi lại. Một lần, B lái xe đi trên đường và gây tai nạn. Qua điều tra được biết, xe gây tai nạn là do sự cố kỹ thuật của xe. Nhưng theo quy định của pháp luật dân sự, xe đang do B chiếm hữu và sử dụng nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại này phải thuộc về B. Xét dưới góc độ của Luật HN & GĐ có thể thấy nhu cầu đi lại để phục vụ cho công việc của B thực chất cũng được coi là nhu cầu chung của gia đình, mặt khác, khi B cần phương tiện đi lại lấy xe là tài sản riêng của A để đi nhưng A cũng không có ý kiến gì mà để mặc cho B sử dụng chiếc xe này. Thực tế cho thấy khi vợ chồng có cuộc sống bình thường thì tất cả mọi người đều ứng xử như vậy mà không phân định rõ đó là tài sản riêng của một bên. Vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng trong trường hợp tài sản của một bên vợ, chồng giao cho bên kia chiếm hữu, sử dụng mà gây thiệt hại cũng nên xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm chung của vợ chồng, trừ trường hợp người kia sử dụng tài sản riêng của một bên không vì nhu cầu chung của gia đình mà gây thiệt hại hoặc bên vợ, chồng có tài sản riêng thỏa thuận người sử dụng tài sản sẽ phải bồi thường thiệt hại khi tài sản gây thiệt hại cho người khác.

    Trường hợp tài sản riêng của một bên đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình, theo quy định của Luật HN & GĐ (Điều 33), trong trường hợp này khi định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Vậy, khi tài sản riêng ấy gây thiệt hại có xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm chung của vợ chồng hay không? Chẳng hạn A và B là vợ chồng ( A có tài sản riêng là một chiếc xe ô tô). A làm nghề chạy xe khách để kiểm sống. Cả nhà A và B đều sống nhờ thu nhập có được từ nghề chạy xe của A. Khi xe của A gây tai nạn và phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại một khoản tiền được xác định là 100 triệu, qua điều tra, được biết, nguyên nhân gây tai nạn là do sự cố của phanh xe không còn an toàn. Vậy, có xác định vợ của A (là B) cũng phải liên đới bồi thường thiệt hại do xe ô tô của A gây ra hay không? Rõ ràng, đứng dưới góc độ Luật HN & GĐ, nhìn nhận tính chất của quan hệ hôn nhân thì khi tài sản riêng của một bên đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình và tài sản riêng đó gây thiệt hại thì nên chăng phải xác định đây cũng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại chung của hai vợ chồng.

    2.2.2 Bồi thường thiệt hại do súc vật thuộc tài sản của vợ, chồng gây ra

    Súc vật là thú dữ được thuần hóa, chúng hoạt động theo bản năng, con người phải kiểm soát hoạt động của chúng để tránh tình trạng chúng gây thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp con người không kiểm soát được và chúng gây thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được đặt ra. Ở trường hợp này, người chủ sở hữu tài sản được suy đoán là có lỗi.

    + Trường hợp súc vật là tài sản chung của vợ chồng gây thiệt hại

    “ Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác…” ( Điều 625 Bộ Luật Dân sự năm 2005)

    Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự, nếu tài sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định là trách nhiệm chung của vợ chồng.

    + Trường hợp súc vật là tài sản riêng của vợ, chồng gây thiệt hại. Trước hết, phải xác định theo nguyên tắc, khi tài sản riêng của vợ, chồng là súc vật gây thiệt hại thì người có tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản đó gây ra. Nếu vợ chồng cùng thỏa thuận bồi thường thiệt hại này bằng tài sản chung của vợ chồng thì thỏa thuận ấy của vợ chồng được chấp nhận. Như vậy, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra thì điều thực sự có ý nghĩa chính là việc phân định rõ tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Trên thực tế, việc xác định tài sản là súc vật thuộc tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng rất phức tạp. Trong nhiều trường hợp nếu không nhìn nhận một cách thấu đáo có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của vợ chồng. Ví dụ: Trước khi kết hôn, A có một đàn trâu 10 con, sau khi kết hôn với B đàn trâu này nhân lên thành 25 con, vì 10 con trâu đó đến độ sinh sản và liên tục đẻ nghé con. Một lần, một con trâu trong đàn húc phải một em bé và gây thiệt hại về sức khỏe, làm cho em bé phải vào viện điều trị dài ngày. Như vậy, nếu chỉ nhìn vào đàn trâu này một cách chung chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra đối với A, vì rằng đàn trâu này ban đầu được xác định là của A. Tuy nhiên, chỉ một con trâu trong số đó gây thiệt hại và người ta xác định được đó là con trâu nào thì vấn đề đặt ra sẽ khác, chẳng hạn con trâu đó không phải là con trâu nằm trong số 10 con trâu ban đầu thì lại được xác định là tài sản chung của vợ chồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của chung vợ chồng. Bởi vì, những con trâu được nhân lên sau này từ đàn trâu 10 con chính là “ hoa lợi” mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân nên được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng cần được xác định là trách nhiệm chung của vợ chồng trong trường hợp tài sản riêng của vợ, chồng đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình.

    2.2.3 Bồi thường thiệt hại do cây cối là tài sản của vợ chồng gây ra

    “Chủ sở hữu tài sản phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gãy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự cố bất khả kháng” ( Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2005)

    Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự thì nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết được xem xét đối với chủ sở hữu. Vì vậy, nếu tài sản là cây cối thuộc sở hữu chung của vợ chồng gây thiệt hại thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản thuộc sở hữu chung.

    Trường hợp cây cối là tài sản riêng của vợ, chồng gây thiệt hại cho người khác, theo nguyên tắc này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết cũng được xác định là trách nhiệm của người có tài sản. Vì lẽ đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của bên vợ, chồng có tài sản gây thiệt hại. Nếu bên chồng, vợ kia (không phải là chủ sở hữu tài sản này) đồng ý bồi thường thiệt hại bằng tài sản chung của vợ chồng thì lấy tài sản chung của vợ, chồng để bồi thường.

    Trường hợp tài sản riêng của vợ, chồng là cây cối gây thiệt hại nhưng tài sản này đưa vào sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức là nguồn sống duy nhất của gia đình thì khi cây cối gây thiệt hại có phải bồi thường thiệt hại hay không? Đây là vấn đề hiện nay chưa được quy định cụ thể. Theo quan điểm của chúng tôi, xuất phát từ cơ sở của việc ghi nhận vấn đề hạn chế quyền tự định đoạt của vợ chồng trong trường hợp này cũng nên xác định đây là trường hợp đặc biệt xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó là trách nhiệm chung của vợ chồng.

    2.2.4. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản là nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

    “ Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cuả người bị thiệt hại hoặc do sự cố bất khả kháng”. ( Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2005)

    + Nhà cửa, công trình xây dựng khác là tài sản chung của vợ chồng gây thiệt hại.

    Khi tài sản chung của vợ chồng gây thiệt hại mà được xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là của chủ sở hữu thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là trách nhiệm chung của vợ chồng . Vợ chồng phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, chỉ cần xác định tài sản gây thiệt hại là tài sản chung của vợ chồng , trên cơ sở này, căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự, chúng ta sẽ xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị thiệt hại cũng như lợi ích của các bên vợ chồng.

    + Nhà cửa, công trình xây dựng khác là tài sản riêng của vợ, chồng gây thiệt hại

    Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của vợ, chồng trong trường hợp này cho đến nay còn khá nhiều phức tạp. Như chúng tôi đã phân tích trong các nội dung trên. Bình thường, trong cuộc sống vợ chồng, ranh giới giữa tài sản chung và tài sản riêng rất “ mờ nhạt”. Khi cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, người ta ít phân định "của anh, của tôi" mà thường “ hòa làm một” vì lợi ích của gia đình. Tuy nhiên, khi động chạm đến quyền lợi, người ta cũng lại ý thức rất rõ về cái chung, cái riêng để tránh thua thiệt. chính vì lẽ đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi tài sản riêng của vợ, chồng gây thiệt hại cần phải được xem xét một cách thấu đáo và đặt trong từng trường hợp cụ thể.

    Tài sản riêng của vợ, chồng là nhà ở, công trình xây dựng khác gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết được xác định đối với bên vợ, chồng là chủ sở hữu tài sản theo nguyên tắc chung của Luật Dân sự, người bồi thường thiệt hại là chủ sở hữu tài sản.

    Trường hợp tài sản này được giao cho bên vợ, bên chồng quản lý, sử dụng. Bên cạnh việc áp dụng nguyên tắc chung của Luật Dân sự là xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về người trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản cũng cần phải xem xét một số khía cạnh từ góc độ hôn nhân và gia đình để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho thấu tình, đạt lý. Chẳng hạn, đối với trường hợp tài sản riêng của một bên giao cho nguời kia quản lý, sử dụng vì lợi ích chung của gia đình mà gây thiệt hại; nên chăng cần xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại này là trách nhiệm chung của vợ chồng, trách nhiệm này chỉ đặt ra đối với người trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản khi tài sản ấy không được sử dụng vì nhu cầu chung của gia đình, hoặc trường hợp vợ chồng có thỏa thuận trước về việc người quản lý, sử dụng tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi tài sản này gây thiệt hại cho người khác.

    Trường hợp tài sản riêng đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình thì khi tài sản này gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phải được xác định là trách nhiệm chung của vợ chồng. Bởi vì, nếu chỉ đơn thuần áp dụng các quy định của Luật Dân sự, trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định cho chủ sở hữu tài sản, điều này là không công bằng đối với bên có tài sản riêng. Vì rằng, tài sản của họ đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó được dùng để đảm bảo nhu cầu chung của gia đình nhưng tài sản này gây thiệt hại lại chỉ bên có tài sản phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân, người có tài sản riêng còn phải sử dụng tài sản riêng để đáp ứng những nhu cầu chung của gia đình trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để đáp ứng (Điều 33 – Luật HN & GĐ). Chính vì vậy, vì tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, chúng tôi cho rằng cũng phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản riêng của vợ, chồng gây ra trong trường hợp này cũng là trách nhiệm chung của vợ chồng.

    2.3 Một số vấn đề còn tồn tại xung quanh việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra.

    Từ sự phân tích trên, có thể nhận thấy rằng việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, không chỉ là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với người bị thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra; mà còn bảo vệ quyền lợi về tài sản cho các bên vợ, chồng. Chính vì lẽ đó, để xác định một cách chính xác trách nhiệm tài sản đó thuộc về bên vợ, bên chồng hoặc cả hai vợ chồng thì trước hết phải xác định tài sản gây thiệt hại là tài sản riêng của vợ, chồng hay là tài sản chung của vợ chồng. Luật HN & GĐ hiện hành đã quy định các căn cứ xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng làm cơ sở phân định giữa tài sản chung và tài sản riêng. Vì vậy, phải dựa vào căn cứ này để xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Theo quy định của Luật HN & GĐ hiện hành, vợ chồng có quyền nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng. Vì thế, cần phải xác định rõ hành vi nào được coi là đã nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng, từ đó, có cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra. Tuy nhiên, do tính chất của cuộc sống vợ chồng, tài sản của vợ chồng gây thiệt hại dù là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng trong nhiều trường hợp việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phải được xem xét đến những nét đặc thù của đời sống hôn nhân và gia đình mà không thể áp dụng một cách dập khuôn các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong Luật Dân sự. Vì thế, trong phạm vi vấn đề này chúng tôi xin trao đổi một vài nội dung sau:

    + Thứ nhất: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra là một trường hợp xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khá đặc thù, bên cạnh các quy định chung của pháp luật dân sự về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải có các quy định cụ thể về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra. Tuy nhiên, pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành không quy định cụ thể về vấn đề này. Vì vậy, việc áp dụng các căn cứ về bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra gặp không ít khó khăn. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thiệt hại mà còn ảnh hưởng đến lợi ích tài sản của vợ chồng. Vì vậy, theo chúng tôi, Luật HN & GĐ nên có các quy định mang tính nguyên tắc về việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra. Các quy định này cùng với quy định của Luật Dân sự sẽ là cơ sở để chúng ta áp dụng vào việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra trong các trường hợp cụ thể.

    + Thứ hai: Do tính chất của cuộc sống vợ chồng, cho nên khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại, ngay cả trong trường hợp tài sản gây thiệt hại là tài riêng của một bên vợ, chồng (nhưng như chúng tôi đã phân tích trong các nội dung trên), có những trường hợp tài sản riêng của một bên gây thiệt hại, nếu áp dụng căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuần túy của pháp luật dân sự sẽ thật là thiếu công bằng và khách quan đối với người có tài sản riêng. Chẳng hạn, trường hợp tài sản riêng được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình, theo quy định của Luật HN & GĐ, ở trường hợp này, khi định đoạt tài sản riêng, người vợ, người chồng có tài sản riêng không thể tự mình định đoạt tài sản đó mà phải có sự thỏa thuận, đồng ý của người kia. Bởi thế, khi tài sản này gây thiệt hại, nên chăng cần phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó cũng là trách nhiệm chung của vợ chồng. Tương tự, trường hợp tài sản riêng của vợ, chồng được đưa vào sử dụng chung vì nhu cầu chung của gia đình, khi tài sản này gây thiệt hại cũng phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại này là trách nhiệm chung của vợ chồng. Bởi vậy, theo chúng tôi, Luật HN & GĐ cần phải quy định nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ, chồng gây ra theo hướng này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích về tài sản cho các bên vợ chồng./.

     

    L.S Nguyễn Văn Tuấn

    ĐC: Phan Văn Trường, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội

    Tel:  0985 928 544

     

     

     
    Báo quản trị |  
  • #302061   13/12/2013

    tuannhica
    tuannhica

    Male
    Mầm

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:11/12/2013
    Tổng số bài viết (41)
    Số điểm: 635
    Cảm ơn: 24
    Được cảm ơn 2 lần


    TRANH CHẤP VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP CHỦ SỞ HỮU, NGƯỜI CHIẾM HỮU TÀI SẢN HỢP PHÁP ĐỂ TÀI SẢN THUỘC QUYỀN SỞ HỮU HOẶC T

     

     

    Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS), mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận. Do đó, bất cứ người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh dự uy tín của pháp nhân hoặc các chủ thể khác thì phải có nghĩa vụ bồi thường.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định từ Điều 604 đến Điều 630 của BLDS, bao gồm: căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường, xác định thiệt hại. Ngoài các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS còn quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể: bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625); bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra (Điều 626);bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 627).Theo các quy định này, chủ sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản hợp pháp để tài sản thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu của mình gây ra thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường.

    Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định pháp luật giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gặp phải khó khăn, bất cập nhất định, nhất là đối với trường hợp xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản hợp pháp khi để tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình gây thiệt hại cho người khác. Trong phạm vi chuyên đề này nhóm tác giả nghiên cứu quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và phân tích vụ án xẩy ra trên thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị trong việc áp dụng quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.

    1. Về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra

    Dựa trên các nguyên tắc chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc bồi thường thiệt hại, đối với bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra thì về nguyên tắc, người chủ sở hữu súc vật gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại; tuy nhiên, Điều 625 BLDS quy định bồi thường thiệt hại đối với từng trường hợp cụ thể:

     

    - Nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi thường. Trong trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại;

    - Nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại; Trong trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường;

    - Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

    So với quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995, thì quy định về trường hợp súc vật bị sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người sử dụng trái pháp luật phải bồi thường là quy định mới được bổ sung tại Bộ luật dân sự năm 2005. Do thói quen nuôi súc vật thả rông trong nhân dân, điển hình như việc nuôi chó để canh nhà, nuôi trâu, bò, ngựa cho sản xuất nông nghiệp theo lối chăn thả tự do, nhiều trường hợp súc vật gây thiệt hại nặng nề không chỉ tổn thất về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí tính mạng cho người bị thiệt hại. Sau đây là một vài trường hợp:

    - Trường hợp 1[1]: Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-1-2004, ông Nguyễn Văn H. trú tại phường LC, quận TĐ, thành phố Hồ Chí Minh đang chạy xe đạp trên đường DC, quận TĐ thì bất ngờ bị một con chó tấn công vào chân phải. Ngay sau khi xảy ra sự việc, bà T. chủ sở hữu của con chó kia đã đưa ông H. đi chích ngừa một lần duy nhất, sau đó không quan tâm đến sức khỏe của ông H. nữa. Vô cớ bị chó cắn, ông H. không thể đi làm và còn phải mua thuốc uống trị vết thương tốn gần 1 triệu đồng mà không được bà T. nói gì đến việc bồi thường, ông H. đã trực tiếp đến nhà của bà T. để bàn bạc. Bà T. dứt khoát không bồi thường ngoài việc trả tiền chích ngừa vì theo bà, trong việc này ông H. cũng có một phần lỗi: xe đạp của ông H. quá cũ, phát ra tiếng kêu rất khó nghe nên con chó nhà bà mới "quá khích" như vậy (?!), hơn nữa chó nhà bà không phải là chó dại thì việc bà đưa ông đi chích ngừa 1 lần là đủ rồi. Trước thái độ của bà T., ông H. phải gửi đơn đến các cơ quan chức năng nhờ can thiệp.

    - Trường hợp 2[2]: Ngày 20-3-2007 tại thôn 5, xã Tam Phước, huyện Phú Ninh, Quảng Nam xảy ra trường hợp do súc vật bị điên nên gây trọng thương cho rất nhiều người. Sự việc diễn ra như sau: 5h sáng, con chó lai Becgie nặng 20kg của nhà ông Võ Lương đã nổi cơn điên chạy sang cắn bà Trần Thị Khôi bị thương nặng, tiếp tục con chó lao tới cắn bà Trần Thị Diêu (78 tuổi), em Nguyễn Hùng (học sinh lớp 6), ông Châu Văn Hữu đứt một ngón tay, ông Trần Văn Thể gần đứt dương vật. Tương tự như các trường hợp trên, con chó tiếp tục cắn bị thương nặng 10 người tại thôn 5 xã Tam Phước. Theo nhiều nạn nhân điều trị tại Bệnh viện cho biết: "Con chó vừa lớn vừa bị điên nên nó dữ lắm, ai vào cứu đều bị cắn ít nhiều”. Đêm hôm trước, khi con chó phát bệnh đã cắn nát hai vườn chuối nhà ông Châu Văn Hữu và bà Trần Thị Khôi, ngoài ra còn cắn bị thương một con trâu của nhà ông Văn Thể. Đến 8h sáng ngày hôm sau, lực lượng công an, dân quân, tự vệ kết hợp cùng nhân dân hơn 50 người mới hạ được con chó điên này. Một điều đáng nói, khi con chó cắn các nạn nhân bị thương nặng thì chủ nhân của con vật không hề quan tâm đến nạn nhân, có những nạn nhân điều trị tiền thuốc lên đến nhiều triệu đồng.

    - Trường hợp 3[3]: Chị Mỹ kể khoảng 8 giờ sáng ngày 6-12, vợ chồng chị gửi bé Quý cho người cô cùng ấp để đi làm đồng. Bé đi theo những người phóng lúa ngang sân nhà ông Tư Cóc thì bị ba con chó (mỗi con nặng khoảng 15-20 kg) đang nuôi con nhào ra cắn xé. Do bé Quý nhỏ mà ba con chó lại lớn nên các nông dân không thấy, tưởng chúng cắn nhau. Mãi hồi lâu một người hàng xóm đi ngang qua, thấy bé Quý đẫm máu, nằm im lìm dưới chân ba con chó bèn vội la lên. Liền đó, hai con chó hung dữ rượt đuổi người này, con còn lại đứng giữ bé Quý. Mọi người phải xúm lại dùng cây đuổi chúng rồi đưa bé đi cấp cứu. Khi được đưa đến bệnh viện, toàn thân bé Quý chi chít vết thương và đã hôn mê, hai mắt không còn mở ra được. Chỉ trong một ngày, bé được chuyển đến bốn bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. Cuối cùng, Bệnh viện Nhi đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh đã chữa trị cho bé tai qua nạn khỏi. Theo chị Mỹ, đến nay gia đình ông Tư Cóc đã hỗ trợ chị 3,2 triệu đồng để lo thuốc thang. Do nghĩ sự việc xảy ra ngoài ý muốn nên vợ chồng chị không khiếu nại đòi ông Tư Cóc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, chị cũng rất lo lắng vì sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của bé sau này. Sau khi sự việc xảy ra, Ủy ban nhân dân xã Long Bình xác định ba con chó trên đều chưa được tiêm ngừa nhưng cơ quan thú y chưa phát hiện chúng có dấu hiệu bị bệnh. Theo ông Đinh Văn Thế, Chi cục trưởng Chi cục Thú y tỉnh Long An, sau một tháng, nếu chúng không phát bệnh thì sức khỏe của bé Quý tạm thời sẽ không bị ảnh hưởng.

    Đối với các trường hợp giải quyết yêu cầu đòi chủ sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản hợp pháp bồi thường thiệt hại khi tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền chiếm hữu của họ gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác, ngoài việc áp dụng các hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Tòa án phải áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS và hướng dẫn tương ứng tại NQ số 03/2006, cụ thể như sau:

    Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Cần phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự. Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây:

    + Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

    + Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

    Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại…

    Ngoài ra, còn phải xác định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Khi thực hiện quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp; Bên cạnh đó, còn phải xác định mức chi phí hợp lý. Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và c khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.

    Nghị quyết số 03/2006 còn hướng dẫn cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của các đương sự:

    - Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại.

    - Người gây thiệt hại yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại phải có tài liệu, chứng cứ về khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình không đủ để bồi thường toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đã xảy ra.

    - Người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại phải có đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại.

    - Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định như sau:

    Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 01-01-2005 (ngày Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực), thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.

    Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 01-01-2005, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày 01-01-2005. NQ số 03/2006 còn hướng dẫn việc xác định thiệt hại do sức khỏe; tính mạng; danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Ngoài các nội dung hướng dẫn nêu trên, NQ số 03/2006 còn hướng dẫn bồi thường thiệt hại trong trường hợp cụ thể như bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (Điều 623).

    Đối với các ví dụ nêu trên (trường hợp 1,2,3) giả thiết nếu người bị thiệt hại yêu cầu Tòa án giải quyết việc bồi thường thiệt hại thì ngoài việc áp dụng quy định của BLDS, BLTTDS và hướng dẫn của NQ số 03/2006, của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để giải quyết trong từng trường hợp cụ thể không phải là đơn giản.

    Đối với trường hợp 1, Tòa án phải xác định được việc ông H. có lỗi hay không có lỗi trong việc bị chó cắn. Lỗi ở đây được hiểu là ông H. có chọc giận con chó hay có những hành vi xua đuổi, đánh đập con chó khiến con chó tức giận cắn ông hay không. Nếu đúng là ông H. chỉ đi ngang trên đường (cho dù chiếc xe đạp của ông phát ra tiếng động) mà bị con chó chạy ra cắn thì ông H. hoàn toàn không có lỗi trong việc này. Trong trường hợp này, cũng cần được xác định là trường hợp súc vật thả rông theo tập quán không? Muốn vậy, cần xác định Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành văn bản cấm thả rông súc vật trên đường phố hay chưa… Nếu Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành văn bản cấm thả rông súc vật thì việc bà T. để chó của mình chạy ra đường cắn ông H. là lỗi hoàn toàn thuộc về bà T. Bà T. phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông H. Vấn đề thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được quy định cụ thể tại Điều 609 BLDS. Theo đó, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người thiệt hại, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị… Như vậy, việc chủ sở hữu súc vật phải bồi thường bao nhiêu phải căn cứ vào thiệt hại thực tế đã xảy ra để quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại tự nguyện đồng ý mức bồi thường thiệt hại của người chủ sở hữu súc vật đề nghị.

    Đối với trường hợp 2 cần xem xét trong trường hợp súc vật này có được xác định là súc vật được thả rông theo tập quán hay không. Trong trường hợp xác định súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội (khoản 4 Điều 625 BLDS). Việc xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được xác định theo khoản 1 Điều 609 BLDS như nêu trên. Như vậy những người bị con chó nhà ông Võ Lương cắn ảnh hưởng đến sức khỏe thì ông Lương phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân theo quy định của pháp luật…

    Đối với trường hợp 3. Theo Điều 625 BLDS, nếu chủ sở hữu súc vật có lỗi (kể cả lỗi vô ý) thì phải bồi thường cho người bị súc vật gây tổn hại sức khỏe, chỉ trong trường hợp người bị tổn hại có lỗi hoàn toàn trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu súc vật mới không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong vụ việc trên, dù sân nhà hàng xóm là “vùng lãnh thổ” canh giữ của ba con chó nhưng gia đình này có lỗi là không treo biển báo, không rào giậu kỹ, để bé Quý băng qua sân. Bên cạnh đó, khi chó mẹ đẻ con, gia đình này biết rõ chó mẹ sẽ hung dữ bất thường nhưng lại không xích, nhốt chó lại. Như vậy, chủ sở hữu súc vật hoàn toàn có lỗi nên phải bồi thường cho người giám hộ của bé Quý. Có ý kiến cho rằng, nếu người giám hộ của bé Quý yêu cầu thì chủ sở hữu súc vật phải bồi thường toàn bộ chi phí điều trị cho bé và thu nhập của người nhà trong thời gian chăm sóc bé ở bệnh viện, tổn thất tinh thần của bé… theo quy định của pháp luật dân sự. Ý kiến khác cho rằng chủ sở hữu súc vật phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, muốn khởi tố chủ sở hữu súc vật gây thiệt hại thì phải xác định chó có phải là “nguồn nguy hiểm cao độ” và khi chó tấn công bé Quý có phải là thi hành lệnh của chủ hay không. Nếu trả lời được hai câu hỏi này thì mới có thể bàn đến trách nhiệm hình sự. Cụ thể, nếu chó là “nguồn nguy hiểm cao độ” thì chủ sở hữu súc vật phải có trách nhiệm nhốt giữ cẩn thận, sơ suất để chó thoát ra cắn người thì tùy theo hậu quả mà có thể bị xử lý về tội vô ý gây thương tích hoặc vô ý làm chết người. Nếu chủ sở hữu súc vật cố tình suỵt chó cắn người (một số loài chó thông minh, được huấn luyện có khả năng nghe lệnh chủ tấn công người khác) thì có thể bị xử lý về tội cố ý gây thương tích hoặc giết người. Theo quy định của pháp luật, chó nhà không được liệt vào “nguồn nguy hiểm cao độ” (thú dữ, điện cao thế, các phương tiện vận tải đang lưu thông) nên Bộ luật hình sự không đưa hành vi nuôi chó nhà (trong chuồng hay thả rông) vào diện phòng ngừa chung. Mặt khác, ba con chó tự phát tấn công bé Quý nên không có cơ sở nào để xử lý hình sự người chủ sở hữu súc vật.

    Qua một vài trường hợp như nêu trên cho thấy mặc dù rất nhiều trường hợp do thả rông súc vật, do bất cẩn nên súc vật gây ra những thiệt hại nặng nề cho người bị thiệt hại, nhưng trên thực tế người bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đòi bồi thường thiệt hại do bị súc vật gây ra lại không nhiều. Ví dụ, năm 2005 toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý 06 vụ, đã giải quyết 05 vụ (trong đó: 01 vụ đình chỉ giải quyết, 01 vụ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, 03 vụ xét xử). Có thực tế này là do khi thiệt hại xảy ra, chủ sở hữu súc vật và người bị thiệt hại thường giải quyết theo tinh thần các bên tự thỏa thuận và có mức bồi thường thỏa đáng, do đó không dẫn đến việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đòi bồi thường thiệt hại, đây cũng là lý do lý giải nguyên nhân vì sao các thiệt hại về sức khỏe do bị súc vật gây ra trên thực tế nhiều nhưng lại hiếm khi được giải quyết bằng con đường Tòa án. Đối với những trường hợp khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại là do các bên không tự thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng mức bồi thường lại không thỏa đáng nên dẫn đến tranh chấp. Đối với Tòa án, khi giải quyết những yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra thì việc xác định mức độ lỗi của các bên (lỗi bên chủ sở hữu súc vật, lỗi của người bị thiệt hại…) và việc xác định súc vật thả rông theo tập quán hay không (theo quy định của Điều 625 BLDS) là tương đối khó khăn. Khi các bên yêu cầu Tòa án giải quyết thường là những vụ việc phức tạp, chủ sở hữu súc vật không chịu bồi thường vì cho rằng nạn nhân có lỗi trong việc bị súc vật tấn công do đó chủ sở hữu súc vật không phải chịu trách nhiệm bồi thường…

    Qua một số ví dụ nêu trên cho thấy, mặc dù BLDS đã quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng các quy định này vào việc bồi thường cho người bị thiệt hại cũng còn nhiều vấn đề phải bàn, như việc xác định mức độ lỗi của người bị thiệt hại, việc xem xét súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội…

    2. Về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

    Điều 626 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra như sau: “Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”. Ở đây cần lưu ý khái niệm “sự kiện bất khả kháng”. "Sự kiện bất khả kháng" theo quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS là: "Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép". Như vậy, sự kiện bất khả kháng phải là: a) Sự kiện không thể lường trước được. Nếu lường trước được mà để xảy ra thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm dân sự. b) Cùng với tính chất không lường trước được, sự kiện bất khả kháng còn phải là không tránh được và không thể chống đỡ được, tức là đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết mà thiệt hại vẫn xảy ra. Tính chất không lường trước được và tính chất không thể tránh được và không thể chống đỡ được, phải được xem xét và đánh giá cụ thể trong từng trường hợp. Mặc dù BLDS đã quy định như nêu trên, nhưng trên thực tế, để xác định một sự kiện là bất khả kháng thì còn nhiều tranh luận.

    Xung quanh vấn đề bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra, trong trường hợp nếu thiệt hại về tính mạng thì một vấn đề khác còn được đặt ra là chủ sở hữu cây đổ, gãy ngoài trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của BLDS thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Sau đây là một trường hợp cụ thể[4]: Sự việc xảy ra chiều 14-9, bé Thiện đứng đợi mẹ là bà Phạm Thị Ngọc Đoan trước nhà số 524/4 đường Hưng Phú, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, một cơn gió mạnh thổi qua, cây dừa khô trước mặt gãy đôi, rơi xuống đầu Thiện khiến cậu bé bất tỉnh. Hôm sau, nạn nhân tắt thở. Theo người dân trong khu vực, cây dừa cao hơn 10 m đã chết khô cách đây 2 năm, thuộc sở hữu của ông Nguyễn Văn Tiên, trú tại số 524/12 Hưng Phú (đối diện nhà 524/4 Hưng Phú). Sau cái chết của con trai, căn cứ vào các quy định của pháp luật đã nêu trên, bà Phạm Thị Ngọc Đoan cho rằng việc cây đổ, gãy gây ra thiệt hại về tính mạng hoàn toàn không có lỗi của người bị thiệt hại và cũng không phải do sự kiện bất khả kháng. Bà Phạm Thị Ngọc Đoan gửi đơn tới các cơ quan chức năng, đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự chủ sở hữu cây dừa và bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân. Theo mẹ của nạn nhân, cây dừa này đã chết từ lâu, nằm trong khu đông dân cư, ông Nguyễn Văn Tiên phải có ý thức về việc cây có thể đổ bất cứ lúc nào, gây nguy hiểm cho người đi đường. Việc xem xét trách nhiệm hình sự hay không thuộc về cơ quan chức năng nhưng nếu xác định đúng cây dừa thuộc quyền sở hữu của ông Tiên thì việc bà Đoan yêu cầu ông Nguyễn Văn Tiên phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo điều 626 BLDS là có cơ sở.

    Ngoài việc xem xét trách nhiệm dân sư của chủ sở hữu cây thì cần xem xét trách nhiệm đối với cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc quản lý cây xanh nơi công cộng. Việc xác định lỗi và trách nhiệm bồi thường của các bên trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn và chưa có quy định của pháp luật về việc buộc cơ quan nhà nước phải bồi thường khi gây thiệt hại cho người khác. Hiện nay Bộ Tư pháp đang xây dựng dự án Luật Bồi thường nhà nước. Theo tinh thần của dự thảo Luật Bồi thường Nhà nước thì phạm vi điều chỉnh của Luật quy định trách nhiệm bồi thường Nhà nước về thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, bao gồm các lĩnh vực: hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, thi hành án. Dự thảo Luật cũng quy định những trường hợp phải bồi thường do tài sản thuộc Nhà nước quản lý gây ra. Theo đó, cây đổ, cầu sập, dây điện cao thế đứt… gây chết hoặc bị thương con người hoặc thiệt hại về tài sản cũng được xem xét bồi thường theo Luật Bồi thường Nhà nước. Nguyên tắc chung là thiệt hại được bồi thường một lần, bằng tiền, trên cơ sở thỏa thuận giữa bên bị thiệt hại và bên gây ra thiệt hại. Nếu việc thỏa thuận không thành, việc bồi thường sẽ tuân theo một bản án hoặc quyết định của toà án. Tiền bồi thường sẽ lấy từ ngân sách Nhà nước. Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại, tuỳ theo lỗi cố ý hay vô ý, có trách nhiệm bồi hoàn toàn bộ hay một phần số tiền Nhà nước đã ứng ra để bồi thường.

    3. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

    Điều 627 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra như sau: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.

    Thực tế yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong những năm gần đây ngày càng nhiều, các tranh chấp thường mang tính chất gay gắt, bức xúc kéo dài nhiều năm không thể giải quyết được. Có gia đình bắt đầu xây dựng lại căn nhà, sau khi đào, đổ móng xong thì chủ nhà bên cạnh không cho xây tiếp mà bắt phải bồi thường vì cho rằng việc đào móng đã làm cho căn nhà này bị nghiêng và lún nứt…, hai bên không tự thỏa thuận được, sau đó nhờ chính quyền địa phương hòa giải nhưng cũng không thành, chủ nhà bị thiệt hại khởi kiện vụ việc ra Tòa án. Chính quyền địa phương ra quyết định buộc gia đình bắt đầu xây dựng phải đình chỉ thi công, giữ nguyên hiện trạng để chờ phán quyết của Tòa án. Có những vụ việc được Tòa án thụ lý từ năm 2001 và kéo dài mãi đến nay cũng chưa xét xử được. Sự việc bị "ngâm" quá lâu khiến cả nguyên đơn và bị đơn đều lâm vào thế bí. Chủ nhà không dám sửa chữa do vẫn phải giữ nguyên hiện trạng các vết lún nứt, nghiêng tường để chờ các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

    Theo dự báo của Hội Kiến trúc sư thành phố thì hiện nay mật độ nhà ở các tuyến đường, khu vực dân cư san sát nhau (nhất là ở các thành phố, khi đô thị lớn…) nên việc thi công các công trình xây dựng tất yếu bị ảnh hưởng không ít thì nhiều. Theo khuyến cáo của các cơ quan chức năng, để hạn chế tình trạng khó xử, trước khi xây dựng công trình, chủ công trình nên ghi nhận tình trạng nhà xung quanh. Nếu được, có thể thuyết phục các hộ dân bên cạnh công trình xây dựng ký vào biên bản chất lượng căn nhà, thậm chí có thể ghi lại bằng hình ảnh, mời chính quyền địa phương chứng kiến để sau này nếu có tranh chấp phát sinh sẽ dễ giải quyết hơn. Về phía các Công ty kiểm định xây dựng cũng khuyên đơn vị thi công, chủ đầu tư công trình xây dựng cần có bước khảo sát trực tiếp hoặc cho giám định chất lượng các nhà dân bên cạnh. Nếu chất lượng không đảm bảo, đơn vị thi công nên có những giải pháp kèm theo nhằm hạn chế những thiệt hại.

    Việc làm lún, nứt nhà hàng xóm, công trình kế cận thường xảy ra không chỉ vì nguyên nhân thi công không đảm bảo mà còn do nhiều nguyên nhân khác như về địa chất, chất lượng công trình bị lún, nứt không đẩm bảo chất lương … Đối với những trường hợp thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra không lớn thì hai bên có thể thương lượng được với nhau, nhưng nếu thiệt hại lớn, các bên lại không có thiện chí khi giải quyết tranh chấp dẫn đến việc các bên phải đưa nhau ra Tòa. Có nhiều vụ việc do các bên không xác định được thiệt hại, không có điều kiện để giám định nguyên nhân gây lún, nứt… do đó không thống nhất về mức bồi thường bao nhiêu là thỏa đáng nên dẫn đến tranh chấp gay gắt. Theo các Tòa án, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tồn đọng kéo dài các vụ tranh chấp này là công tác giám định nguyên nhân lún nứt và thiệt hại của căn nhà bị ảnh hưởng trên thực tế không đạt được hiệu quả. Hiện vẫn chưa có một cơ quan thống nhất đứng ra làm nhiệm vụ giám định về xây dựng.

    Khi thụ lý để giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại này, các Tòa án cũng có nhiều quan điểm. Có Tòa án sau khi kiểm tra tính hợp lệ của đơn khởi kiện đã thụ lý vụ án và ra quyết định trưng cầu giám định xây dựng, nhưng trên thực tế có nhiều vụ việc do số tiền chi phí giám định xây dựng rất lớn, bên yêu cầu trưng cầu giám định không có đủ số tiền tạm ứng chi phí giám định nên cơ quan, tổ chức giám định từ chối giám định. Do việc giám định không thể tiến hành được kéo theo hệ quả nếu không có kết luận giám định thì Tòa án không có cơ sở để giải quyết, bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân sự: theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định… Thực tiễn tại một số Tòa án, để tránh trường hợp này, có Tòa án yêu cầu nguyên đơn phải có kết luận giám định về thiệt hại thì Tòa án mới thụ lý để giải quyết, Tòa án cho rằng theo quy định tại khoản 1 Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án lập luận theo quy định tại khoản 5 Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự thì kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ, do đó khi khởi kiện nguyên đơn phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, tức là nguyên đơn phải có kết luận giám định về thiệt hại kèm theo đơn khởi kiện thì Tòa án mới thụ lý. Ý kiến này cho rằng nên coi đây như một biện pháp áp dụng linh hoạt các quy định của pháp luật để việc thụ lý để giải quyết vụ án của Tòa án được thuận lợi hơn… Có ý kiến cho rằng trong trường hợp nguyên đơn không có được bản kết luận giám định về thiệt hại gửi kèm theo đơn khởi kiện thì Tòa án vẫn phải thụ lý để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của đương sự, sau khi thụ lý Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự. Đa số ý kiến đồng tình quan điểm này. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều vụ việc khi Tòa án ra quyết định trưng cầu một tổ chức giám định thiệt hại của công trình xây dựng thì sau khi có kết quả giám định, đương sự lại không đồng ý với kết quả giám định vì cho rằng kết quả giám định chưa khách quan và yêu cầu giám định lại. Việc này một phần xuất phát từ thực tế là mỗi công ty thường cho kết quả kiểm định khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau về đánh giá nguyên nhân, tình trạng thiệt hại. Có trường hợp việc giám định thiệt hại của Công ty A được Tòa án trưng cầu giám định kết luận tổng thiệt hại và chi phí khắc phục là x… triệu đồng. Nguyên đơn không đồng ý, đề nghị trưng cầu công ty khác giám định. Công ty B xác định tổng thiệt hại lại là y… triệu đồng, có trường hợp kết quả xác định thiệt hại lần sau số tiền gấp đôi kết quả xác định thiệt hại lần trước…

    Về các yêu cầu giám định lại, khoản 3 Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy định của pháp luật”. Do đó, khi có yêu cầu giám định lại, Tòa án ra quyết định giám định lại. Về vấn đề này cũng còn cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng theo quy định tại khoản 3 Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự như nêu trên, khi xét thấy có căn cứ cho thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng mà một bên hoặc các bên yêu cầu giám định lại thì Tòa án phải ra quyết định giám định lại. Có ý kiến cho rằng phải hạn chế việc giám định lại, chỉ tiến hành giám định lại khi thật sự cần thiết…

    Theo chúng tôi, sở dĩ có những vướng mắc như nêu trên là do ngoài các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự về giám định trong tố tụng dân sự nói chung, thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định này, trong khi đó giám định xây dựng là lĩnh vực khó, để thực hiện được thì các đương sự phải chịu tốn kém về tiền bạc và thời gian. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng trưng cầu giám định không hiệu quả là do chúng ta chưa thống nhất được cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng giám định xây dựng, do đó đối với việc mời (chỉ định) cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành giám định trên thực tế không dễ dàng thực hiện được. Nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân được chỉ định giám định từ chối tiến hành giám định. Có nhiều lý do để cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối tiến hành giám định, có trường hợp do không có chức năng giám định xây dựng, có trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân được chỉ định giám định từ chối tiến hành giám định do chi phí giám định không bảo đảm cho việc triển khai giám định… Đây chỉ là một vài vấn đề pháp lý phát sinh khi các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Qua thực tiễn này cho thấy một phần nguyên nhân là các văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng được thực tiễn giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dạng này. Theo quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp thì giám định xây dựng thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này (khoản 1 Điều 9), tuy nhiên qua 4 năm thi hành các quy định của Pháp lệnh về giám định trong lĩnh vực xây dựng còn nhiều bất cập, dẫn đến hiệu quả của việc áp dụng Pháp lệnh này không được như mong muốn. Ngày 01-8-2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1399/QĐ-BTP và Quyết định số 1400/QĐ-BTP về việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật giám định tư pháp, theo kế hoạch thì Ban soạn thảo tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh giám định tư pháp, đánh giá thực trạng, thực tiễn về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp, thực tiễn thi hành các quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp để qua đó, có những sửa đổi, bổ sung kịp thời và làm cơ sở pháp lý cần thiết nâng Pháp lệnh lên thành Luật. Hy vọng khi được nâng lên thành Luật thì thực tiễn giải quyết các yêu cầu của Tòa án về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong lĩnh vực xây dựng nói riêng và giám định tư pháp nói chung sẽ được cải thiện, tạo hành lang an toàn pháp lý để việc giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra của Tòa án đạt được hiệu quả như mong muốn.

     

     

    LS Nguyễn Văn Tuấn

    ĐC: Số 26/ 16 Phan Văn Trường, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội

    Tel:  0985 928 544

     

     

     
    Báo quản trị |