Theo điểm 1.2 phần I
Nghị quyết Số: 04/2004/NQ-HĐTP của hội đồng Thẩm phấn Tào án nhân dân tối cao qui định như sau :
" 1.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử
Điều 176 của BLTTHS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, các thời hạn quy định trong Điều này đều được tính trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuỳ từng trường hợp cụ thể thời hạn chuẩn bị xét xử được tính như sau:
1.2.1. Trường hợp Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
a. Nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà nhận hồ sơ vụ án tối đa là:
a.1. Bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
a.2. Hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng;
a.3. Hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
a.4. Ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
b. Nếu phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà nhận hồ sơ vụ án tối đa là:
b.1. Hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b.2. Hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng;
b.3. Ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
b.4. Bốn tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
c. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b trên đây mà phiên toà không mở được trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường hợp được cộng thêm tối đa là mười lăm ngày nữa."
Vậy theo b.4 và c điểm 1.2.1 thì tối đa sẽ là 5 tháng.Cập nhật bởi manhtamvt ngày 13/10/2010 03:56:59 PM
thêm link