Theo quy định tại Thông tư 08/2013/TT-BNV thì các đối tượng được quy định tại Khoản 1 Điều 1 thông tư trên nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch công chức (gọi là ngạch), trong chức danh nghề nghiệp viên chức, chức danh chuyên gia cao cấp và chức danh chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát (gọi chung là chức danh) hiện giữ, thì được xét nâng một bậc lương thường xuyên khi có đủ điều kiện thời gian giữ bậc trong ngạch hoặc trong chức danh và đạt đủ tiêu chuẩn nâng bậc lương thường xuyên theo quy định của pháp luật.
Trong đó, thời gian giữ bậc trong ngạch để xét nâng bậc lương đối với các đối tượng trên cụ thể như sau:
- Đối với chức danh chuyên gia cao cấp: Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong bảng lương chuyên gia cao cấp, thì sau 5 năm (đủ 60 tháng) giữ bậc lương trong bảng lương chuyên gia cao cấp được xét nâng một bậc lương;
- Đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên: Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch hoặc trong chức danh, thì sau 3 năm (đủ 36 tháng) giữ bậc lương trong ngạch hoặc trong chức danh được xét nâng một bậc lương;
- Đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ trung cấp trở xuống và nhân viên thừa hành, phục vụ: Nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch hoặc trong chức danh, thì sau 2 năm (đủ 24 tháng) giữ bậc lương trong ngạch hoặc trong chức danh được xét nâng một bậc lương.
Mặt khác, theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 thông tư trên quy định thì các trường hợp sau đây sẽ được tính vào thời gian để xét nâng bậc lương thường xuyên, gồm:
- Thời gian nghỉ làm việc được hưởng nguyên lương theo quy định của pháp luật về lao động;
- Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;
- Thời gian nghỉ ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hưởng bảo hiểm xã hội cộng dồn từ 6 tháng trở xuống (trong thời gian giữ bậc) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;
- Thời gian được cấp có thẩm quyền quyết định cử đi làm chuyên gia, đi học, thực tập, công tác, khảo sát ở trong nước, ở nước ngoài (bao gồm cả thời gian đi theo chế độ phu nhân, phu quân theo quy định của Chính phủ) nhưng vẫn trong danh sách trả lương của cơ quan, đơn vị.
Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội sẽ được tính vào thời gian để xét nâng bậc lương thường xuyên đối với các chức danh kể trên.
Do đó: Đối với trường hợp năm vừa rồi bạn có nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 06 tháng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Nên thời gian này sẽ được tính vào thời gian để xét nâng bậc lương thường xuyên đối với bạn theo quy định.