Theo quy định tại Điểm a khoản 1 điều 36 BLLĐ 2019, thì một trong những cơ sở để NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ đó là
Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
Vậy như thế nào là không thường xuyên hoàn thành công việc theo HĐLĐ?
Hiện nay pháp luật không có quy định thế nào là không thường xuyên hoàn thành công việc, mà như theo quy định thì việc này phải được quy định trong Quy chế đánh giá mức độc hoàn thành công việc do NSDLĐ ban hành và phải có tham khảo ý kiến của Công đoàn cơ sở.
Thủ tục ban hành quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc của người lao động
Thứ nhất, cần xây dựng dự thảo quy chế: Người sử dụng lao động phải xây dựng các quy định cụ thể tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của doanh nghiệp. Theo đó, các phòng ban trong doanh nghiệp phối hợp để xây dựng dự thảo Quy chế. Nội dung Quy chế có thể gồm các nội dung: nguyên tắc đánh giá, trình tự, thời điểm đánh giá, thang điểm, thẩm quyền đánh giá.
Thứ hai, phải lấy ý kiến Công đoàn cơ sở và ra Quyết định ban hành Quy chế: Phía người sử dụng lao động sẽ làm việc với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở để trao đổi, lấy ý kiến, trên cơ sở có sự thống nhất. Sau đó người có thẩm quyền của doanh nghiệp sẽ ký Quyết định ban hành Quy chế này. Quy chế này cũng cần được thể hiện, ghi nhận trong Thỏa ước lao động tập thể của công ty.
Trường hợp nếu ban hành Quy chế không đúng thủ tục sẽ bị xử phạt theo Nghị định
12/2022/NĐ-CP
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
Sử dụng quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc nhưng không tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Trường hợp này NSDLĐ có được phép sa thải NLĐ?
Điều 125 Bộ luật Lao động đã quy định các trường hợp người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải bao gồm:
- Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý tại nơi làm việc;
- Người lao động tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
- Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương/cách chức mà tái phạm trong khi chưa xóa kỷ luật.
- Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong 365 ngày mà không có lý do chính đáng.
Như vậy trường hợp không hoàn thành công việc được giao không thuộc các trường hợp bị kỷ luật sa thải. Tuy nhiên NSDLĐ có thể quy định việc này trong nội quy lao động là cơ sở để thực hiện các biện pháp xử lý kỷ luật khác như khiển trách hoặc kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức.