Ngày nay, công nghệ phát triển, nhiều dịch vụ có thể thông qua internet một cách dễ dàng, việc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới cũng không ngoại lệ. Vậy Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử liệu có giá trị pháp lý hay không? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này.
Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử là gì?
Khi mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới, chủ xe sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm, mỗi xe chỉ được cấp 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Theo khoản 3, khoản 4 Điều 6 Nghị định 03/2021/NĐ-CP, Giấy chứng nhận bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm chủ động thiết kế, được phát hành dưới dạng bản cứng hoặc bản điện tử nhưng phải bao gồm các nội dung sau:
- Tên, địa chỉ, số điện thoại (nếu có) của chủ xe cơ giới.
- Số biển kiểm soát hoặc số khung, số máy.
- Loại xe, trọng tải, số chỗ ngồi, mục đích sử dụng đối với xe ô tô.
- Tên, địa chỉ, số điện thoại đường dây nóng của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Mức trách nhiệm bảo hiểm dân sự đối với bên thứ ba và hành khách.
- Trách nhiệm của chủ xe cơ giới, người lái xe khi xảy ra tai nạn.
- Thời hạn bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn thanh toán phí bảo hiểm.
- Ngày, tháng, năm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Mã số, mã vạch được đăng ký, quản lý và sử dụng theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ để lưu trữ, chuyển tải và truy xuất thông tin định danh doanh nghiệp bảo hiểm và nội dung cơ bản của Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Như vậy, từ ngày Nghị định 03/2021/NĐ-CP có hiệu lực (ngày 01/3/2021) thì Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảo hiểm xe máy điện tử có được chấp nhận không?
Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới và doanh nghiệp bảo hiểm.
Đồng thời, tại Điều 33 Luật Giao dịch điện tử 2005, hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Theo Điều 34 Luật này giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Vậy nên, Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử chính là bằng chứng giao kết của hợp đồng bảo hiểm điện tử giữa chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm.
Đồng thời, khoản 3 Điều 18 Nghị định 03/2021/NĐ-CP quy định, người mua bảo hiểm có nghĩa vụ:
Luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực (bản cứng hoặc bản điện tử) khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng Cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, bảo hiểm xe máy điện tử hoàn toàn có giá trị như bản cứng (bản giấy) và được sử dụng để xuất trình khi có yêu cầu của Cảnh sát giao thông hoặc cơ quan có thẩm quyền.
Trường hợp không có hoặc không mang bảo hiểm xe máy, người điều khiển phương tiện sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính
Theo điểm a, khoản 2 Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 11 Điều 2 Nghị định 123/2021/NĐ-CP quy định:
Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (bảo hiểm xe máy) còn hiệu lực thì bị phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.
Theo quy định, khi tham gia giao thông buộc phải mang theo giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cơ giới còn hiệu lực. Trường hợp sử dụng bảo hiểm xe máy hết hạn sẽ bị phạt tiền theo quy định trên từ 100.000-200.000 đồng.