Chào
#0072bc; font-size: 13px;">Pain88,
Có thể nói nhân viên của quận nào đó đã làm khó bạn và không có kiến thức cơ bản về hợp pháp hóa lãnh sự (HTHLS).
Tôi có vài trao đổi sau đây:
- Căn cứ Khoản 2 Điều 2 Luật Cơ quan đại diện nước CHXHCNVN ở nước ngoài năm 2009,
cơ quan đại diện bao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế.
- Căn cứ Điều 4 Luật này, sẽ có định nghĩa:
+
Cơ quan đại diện ngoại giao là Đại sứ quán.
+
Cơ quan đại diện lãnh sự là Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán.
- Khoản 8 Điều 8 Chương II Luật này có quy định Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đại diện, trong đó có HPHLS giấy tờ, tài liệu, ...
- Ngoài ra, tại Điểm 1, Điểm 2 Mục II Thông tư số 01/1999TT-NG ngày 3/6/1999 về
thẩm quyền HPHLS có quy định:
Cơ quan có thẩm quyền của VN bao gồm: " ...
Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan khác của Việt Nam được uỷ nhiệm thực hiện chức năng lãnh sự ở nước ngoài (sau đây gọi chung là CQĐDVN)".
"...
người đứng đầu CQĐDVN có quyền ký hợp pháp lãnh sự..."
"
Người đứng đầu CQĐDVN có thể uỷ quyền cho viên chức ngoại giao thực hiện chức năng lãnh sự hoặc viên chức lãnh sự ký hợp pháp hoá lãnh sự và chứng nhận lãnh sự".
Túm lại, "HPHLS" chỉ là thuật ngữ chỉ việc hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu thông qua việc chứng thực chữ ký, con dấu trên giấy tờ, tài liệu nước ngoài để sử dụng tại VN. Còn thẩm quyền HPHLS thì Cơ quan đại diện (Đại sứ quán, Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán, ...) đều thực hiện được theo quy định nói ở trên.
Vài dòng trao đổi.
Hope For The Best, But Prepare For The Worst !