Ngày có hiệu lực 01/7/2006 và thay thế Luật DNNN 2003, trừ trường hợp qui định tại khoản 2 Điều 166, có nghĩa là trong thời hạn chuyển đổi (chậm nhất là 04 năm: đến 30/6/2010) các Công ty Nhà nước được tiếp tục áp dụng những quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 nếu Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định.
Như vậy, nếu Luật DN 2005 không có quy định thì các DNNN trong thời gian chuyển đổi vẫn được tiếp tục thực hiện theo Luật DNNN 2003.
Tôi được biết hiện tại vẫn có một số DNNN được thành lập theo Luật DNNN 2003, vì theo Luật DN 2005 chỉ quy định hình thức là Công ty cổ phần, Công ty TNHH...
Xin trích lại một số điều trong Luật DN 2005 để bạn đọc và suy nghĩ thêm:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp); quy định về nhóm công ty.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2. Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp.
Điều 166. Chuyển đổi công ty nhà nước
1. Thực hiện theo lộ trình chuyển đổi hằng năm, #0000ff;">nhưng chậm nhất trong thời hạn bốn năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực, các công ty nhà nước thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật này.
Chính phủ quy định và hướng dẫn trình tự, thủ tục chuyển đổi.
2. Trong thời hạn chuyển đổi, những quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 được tiếp tục áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước nếu Luật này không có quy định.
Điều 171. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày #0000ff;">01 tháng 7 năm 2006.
2. Luật này thay thế Luật doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này; các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000.