Súng giả cướp tiền thật định tội danh ra sao?

Chủ đề   RSS   
  • #93744 07/04/2011

    Tranthungvp

    Male
    Chồi

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:01/03/2011
    Tổng số bài viết (97)
    Số điểm: 1230
    Cảm ơn: 29
    Được cảm ơn 33 lần


    Súng giả cướp tiền thật định tội danh ra sao?

    Mình đang tìm hiểu một tình huống nhưng không biết giải quyết ra sao cho hợp lý. Mong các member giúp đỡ.
    Tình huống như sau:
    Với ý định cướp tài sản A 17 tuổi cùng B 21 tuổi rủ nhau đi cướp tài sản. Đi qua một hiệu bán vàng thấy ít người vắng vẻ, nhận thấy  điều kiện thuận lợi A và B bước vào cửa hàng, A rút súng chĩa vào chủ hàng và đe dọa. Trong khi đó B cất số tiền vào túi. Do sợ hãi chủ tiệm vàng không dám làm gì. Tuy nhiên, khi ra tới cửa A làm rớt cây súng xuống nền nhà, nghe tiếng va chạm biết là súng giả, chủ tiệm vàng hô hoán "cướp". Anh T nhà bên cạnh nghe vậy liền rượt theo A và B đang tẩu thoát bằng xe máy. Đến khúc qua T tăng ga cho xe đâm vào xe A và B làm A và B bị ngã, sau đó T đã lấy lại được số vàng bị cướp trả lại cho chủ cửa hàng bán vàng.Tuy nhiên  A bị gãy chân tỉ lệ thương tật 20% còn B thương tật 9%.

    Vậy trong tình huống này xác định tội danh của A và B thế nào?
    T liệu có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

    Sau khi tìm hiểu một số văn bản như Đ133 BLHS, 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ),thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP. Mình thấy:
    1. tội cướp là cấu thành hình thức vì vậy A và B đã thực hiện đầy đủ hành vi khác quan nên phạm tội cướp tuy nhiên về việc định khung hình phát mình không rõ lắm. Liệu có phải dùng súng giả có thể coi là thủ đoạn nguy hiểm khác hay không?
    2. Về hành vi của T là tội cố ý gây thương tích tuy nhiên tình tiết giảm nhẹ có thể là " trong tình thế cấp thiết không"?
    Mong các member đóng góp ý kiến! Cảm ơn đã quan tâm
                                     


    VPI LAW

    Chuyên về tư vấn kinh doanh thương mại, bất động sản và tố tụng.

    Hotline: 093.633.1826

    Email: tranthunglaw@gmail.com

    website: www.vpilaw.com

     
    5927 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #93800   08/04/2011

    tuanday90
    tuanday90

    Male
    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2010
    Tổng số bài viết (36)
    Số điểm: 455
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 4 lần


    Chào Tranthungvp!
    bạn nên hiểu trong trường hợp này lúc A và B thực hiện hành vi chiếm đoạt tai sản thì chủ cửa hành đâu biết được đó là thật hay giả.
    trong trường hợp này bạn nên để ý đến hành vi của A và B có đủ diều kiện cấu thành tội cướp tài sản hay không thôi ( đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự). Còn về súng giả hay súng thật thì nó đều có thể là công cụ phạm tội.


    never giver up!!!!

    Đặng Văn Tuấn

    tuanhlu0911@gmail.com

     
    Báo quản trị |  
  • #93842   08/04/2011

    BachThanhDC
    BachThanhDC
    Top 10
    Cao học

    Nghệ An, Việt Nam
    Tham gia:01/12/2009
    Tổng số bài viết (5291)
    Số điểm: 50883
    Cảm ơn: 1843
    Được cảm ơn 3561 lần
    ContentAdministrators
    SMod

    Chào #0072bc;">tuanday90!

    Tội cướp tài sản thì đã quá rõ ràng rồi. Nhưng vấn đề quan trọng ở đây vì súng giả không phải là vũ khí, cũng không phải là phương tiện nguy hiểm. Vì vậy có thể coi việc sử dụng súng giả để thực hiện hành vi cướp có được coi là "sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác" để định khung hình phạt theo điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS hay không thôi.

    Hành vi sử dụng súng giả không thể coi là sử dụng thủ đoạn nguy hiểm được. Tại tiểu mục 5.1 mục 5 phần I Thông tư 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP quy định:

    "Thủ đoạn nguy hiểm khác" quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để thực hiện việc cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân; đầu độc nạn nhân; nhốt nạn nhân vào nơi nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ; dùng dây chăng qua đường để làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã để cướp tài sản...".

    Như vậy, thủ đoạn nguy hiểm phải được hiểu đúng bản chất của nó. Tức là tự nó phải có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại nhất định cho đối tượng mà người phạm tội tác động đến. Việc đưa súng giả ra đe dọa không thể gây nên bất cứ một sự nguy hiểm nào cả. Còn nếu dùng nó để tác động đến thân thể của người bị hại thì nó lại là hành vi dùng vũ lực rồi.

    Vì vậy, trong trường hợp trên, nếu không có các tình tiết định khung hình phạt nào khác thì hành vi của A và B bị xử lý theo khoản 1 Điều 133 BLHS.

    Thân!

    Hãy làm tất cả những gì trong phạm vi cho phép và khả năng có thể!

     
    Báo quản trị |  
  • #93903   08/04/2011

    hienkhung
    hienkhung

    Chồi

    Khánh Hoà, Việt Nam
    Tham gia:22/06/2010
    Tổng số bài viết (78)
    Số điểm: 1109
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 11 lần


    A và B phạm tội cướp theo khoản 1 Điều 133 thì rõ rồi nhưng T có phải chịu trách nhiệm hình sự không thì chưa ai có ý kiến. Bản thân tôi cũng thấy khó quá, BachThanh DC và cả nhà cùng trao đổi xem nào!
     
    Báo quản trị |  
  • #94193   10/04/2011

    kajnodo92
    kajnodo92
    Top 150
    Male
    Lớp 12

    Sơn La, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2011
    Tổng số bài viết (572)
    Số điểm: 18506
    Cảm ơn: 168
    Được cảm ơn 253 lần


    Em thử phân tích hành vi của T như sau:

    Thứ nhất, Anh T nhà bên cạnh nghe vậy liền rượt theo A và B đang tẩu thoát bằng xe máy. Đến khúc qua T tăng ga cho xe đâm vào xe A và B làm A và B bị ngã, hành vi này của T nhằm ngăn chặn A và B đang chạy thoát để lấy lại tài sản cho chủ cửa hàng. Đây không phải là hành vi nhằm cố ý gây thương tích cho A và B, T chỉ muốn ngăn chặn việc A và B trốn chạy, hành vi của T chỉ thể hiện hành động có tính nghĩa hiệp, ngăn chặn sự chạy trốn của nạn nhân và mong muốn giành lại tài sản bị cướp giật cho người bị hại. Do đó, không đủ dấu hiệu cấu thành “tội có ý gây thương tích” theo Điều 104.

    Thứ hai,việc Anh T tăng ga cho xe đâm vào xe A và B làm A và B bị ngã. Lúc này T ý thức được đây là hành vi nguy hiểm, có thể gây thương tích cho A và B nhưng lại đứng trước hoàn cảnh không thể lựa chọn biện pháp khác nên buộc phải đâm xe của A và B để ngăn chặn việc chạy thoát. Như vậy, T ý thức được hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng buộc phải lựa chọn việc thực hiện hành vi này nhằm mục đích đấu tranh chống lại hành vi xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người khác, ngăn cản A và B chạy trốn. Hơn nữa, không đủ căn cứ để chứng minh T “cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được”  hay "không thấy trước hành vi của mình gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước theo quy định tại Điều 10 BLHS nên không thể xác định hành vi của T được thực hiện một cách vô ý. Từ đó, không đủ dấu hiệu cấu thành “tội vô ý gây thương tích” theo Điều 108.

    Thứ ba, hành vi cướp giật tài sản của A và B đã hoàn thành, do đó hành vi của T trong trường hợp này không mang tính chất “phòng vệ”. Bởi vì, hành vi có tính phòng vệ chỉ đặt ra khi nạn nhân trong trường hợp này đang có hành vi vi phạm pháp luật, nghĩa là hành vi cướp tài sản đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc. Do vậy, không thể xác định đây là hành vi “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo Điều 15 BLHS, thế nên không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm về “tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác do vựơt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo Điều 106.    

    Thứ tư, T trong trường hợp này không phải là người thực hiện nhiệm vụ công theo nghề nghiệp, do công tác như: công an, cảnh sát,bộ đội biên phòng, hải quan, bảo vệ cơ quan ... theo e biết hiện nay, việc người dân tự ý tham gia đấu tranh chống những hành vi xâm phạm đến lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích hợp pháp của công dân như đuổi bắt trộm, cướp, … chưa được quy định là hành vi thực hiện nhiệm vụ công. Như vậy, hành vi của T không được coi là hành vi thuộc trường hợp đang thi hành công vụ. Thế nên, không phải là dấu hiệu cấu thành “tội gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ” theo Điều 107 hay “tội vô ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” Điều 109

    Thứ năm, khoản 1, Điều 105 quy định Ng­êi nµo cè ý g©y th­¬ng tÝch hoÆc g©y tæn h¹i cho søc kháe cña ng­êi kh¸c mµ tû lÖ th­¬ng tËt tõ 31% ®Õn 60% trong tr¹ng th¸i tinh thÇn bÞ kÝch ®éng m¹nh do hµnh vi tr¸i ph¸p luËt nghiªm träng cña n¹n nh©n ®èi víi ng­êi ®ã hoÆc ®èi víi ng­êi th©n thÝch cña ng­êi ®ã, th× bÞ ph¹t c¶nh c¸o, c¶i t¹o kh«ng giam gi÷ ®Õn mét n¨m hoÆc ph¹t tï tõ s¸u  th¸ng ®Õn  hai n¨m. Tuy nhiên, trường hợp này hành vi cướp  tài sản của A và B được thực hiện đối với chủ cử hàng (trong tình huống này chị không nêu chủ cửa hàng và T có quan hệ thân thich nên em nghĩ là không phải), không phải cướp giật tài sản của T hoặc người thân thích của T, do đó hành vi này không phải là dấu hiệu cấu thành “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Điều Điều 105.

    Theo quy định tại khoản 1, Điều 8, “khái niệm tội phạm” của BLHS thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự …”. Như vậy, với hành vi của T, đối chiếu với các điều luật liên quan đến các tội danh xâm phạm sức khỏe con người từ Điều 104 đến 109, không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do đó hành vi này không được coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Về nghĩa vụ bồi thường, em nghĩ T có thể phải bồi thường thiệt hại tùy thuộc vào mức độ lỗi, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với hậu quả, mức độ thiệt hại, tổn thất trên thực tế cho A và B theo quy định của pháp luật dân sự. Em chưa hoc luật Dân sự nên không biết về vấn đề này. Mọi người giải quyết tiếp nha.Hihi.

    Bài viết này có tham khảo bài viết của Luật sư Nguyễn Thiều Dương Công ty Luật Đại Việt

    Cập nhật bởi kajnodo92 ngày 10/04/2011 12:31:25 CH

    Tư vấn pháp luật miễn phí - Đất đai - Thừa kế - Hôn nhân gia đình

    Đoàn Ngọc Khải - 0965354008 - khai.doanngoc@gmail.com

     
    Báo quản trị |  
  • #94195   10/04/2011

    kajnodo92
    kajnodo92
    Top 150
    Male
    Lớp 12

    Sơn La, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2011
    Tổng số bài viết (572)
    Số điểm: 18506
    Cảm ơn: 168
    Được cảm ơn 253 lần


    đấy là em phân tích với trương hợp tỉ lệ thương tích của A và B trên 31%, còn như đề bài A bị gãy chân tỉ lệ thương tật 20% còn B thương tật 9%.thì đương nhiê không bị coi là tội phạm ( vì T không phạm vào Điều 104 như đã trình bày ở phần trên). Các tội từ Điều 105 đên 109 đều có tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dưới 31% nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    Tư vấn pháp luật miễn phí - Đất đai - Thừa kế - Hôn nhân gia đình

    Đoàn Ngọc Khải - 0965354008 - khai.doanngoc@gmail.com

     
    Báo quản trị |