1. Nội dung vụ án
Nguyên đơn ông Dũng trình bày:
Từ ngày 18/7/2018 đến ngày 27/02/2019, tôi có cho vợ chồng bà Nhiên, ông Sơn vay số tiền 980.000.000đ để kinh doanh bất động sản đến nay chưa trả cho tôi. Nay tôi khởi kiện yêu cầu bà Nhiên, ông Sơn phải trả cho tôi số tiền gốc 980.000.000đ, lãi suất 1,66%/tháng tính từ lúc vay đến ngày xét xử sơ thẩm là 209.533.051đ (Trong đó đã trừ số tiền 200.000.000đ là tiền lãi bà Nhiên đã trả ngày 04/04/2019).
Ngoài ra, tôi với vợ chồng bà Nhiên, ông Sơn có thỏa thuận: Nhà đất của chị em bà Nhiên mua của bà Hải thửa đất số 03, diện tích 120m2 tại khu phố TH, thị trấn CS, huyện SH, tỉnh P (gọi tắt là thửa số 03) để cho vợ chồng tôi đứng tên nhằm mục đích nhờ vợ chồng tôi đứng ra làm thủ tục thế chấp số đỏ thửa đất này cho Ngân hàng Kiên Long vay giúp cho bà Nhiên 500.000.000 đồng, Bà Nhiên đã nhận số tiền 500.000.000đ trên và phải có nghĩa vụ trả lãi theo quy định. Hiện nay khoản vay này đã quá hạn, nhưng vợ chồng bà Nhiên không thanh toán cho Ngân hàng, nên tôi đã đứng ra vay đáo hạn và trả nợ xong vào ngày 11/8/2020. Nay, tôi yêu cầu vợ chồng bà Nhiên trả cho tôi 500.000.000đ tiền gốc và các khoản lãi, phí thẩm định vay đáo hạn phát sình với số tiền 62.730.643đ.
Tổng cộng các khoản tôi yêu cầu vợ chồng bà Nhiên phải trả cho tôi tiền gốc 1.480.000. 000đ, tiền lãi 272.266.694đ. Đối với yêu cầu sang tên thửa đất số 03 và yêu cầu trả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là Giấy chứng nhận) của bà Thiện và bà Sen mà bà Nhiên đã thế chấp cho tôi, sau khi bị đơn trả xong nợ thì tôi đồng ý sang tên cho bà Tâm và trả lại 02 Giấy chứng nhận.
Bị đơn bà Nhiên và ông Sơn trình bày:
Vợ chồng tôi xác nhận có vay của ông Dũng số tiền 980.000.000đ để kinh doanh. Tôi đã trả được 200.000.000đ, còn nợ lại 780.000.000đ; chúng tôi đồng ý trả gốc không đồng ý trả lãi vì khi vay không có thỏa thuận lãi suất ghi trong giấy vay, chỉ thỏa thuận lãi suất bằng miệng không có căn cứ giá trị pháp lý. Đối với yêu cầu đòi lại số tiền gốc 500.000.000đ, lãi phát sinh và các chi phí vợ chồng ông Dũng đã vay ở Ngân hàng, vợ chồng tôi không đồng ý vì ông Dũng tự vay và chúng tôi không có nhận khoản tiền này. Ngoài ra, vợ chồng tôi yêu câu vợ chồng ông Dũng phải có trách nhiệm sang tên thửa đất số 03 ngay liền cho bà Tâm vì đây là nhà đất của chị em chúng tôi mua, chỉ nhờ vợ chồng ông Dũng đứng tên giúp.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Tấm có yêu cầu độc lập trình bày:
Đề nghị Tòa án xác định thửa đất số 03 là của bà Tâm. Khi Tòa án tuyên quyền sử dụng đẩt này thuộc bà Tâm thì bà Tâm tự nguyện trả 500.000.000đ và tiền lãi phát sinh cùng tiền phí cho Ngân hàng Kiên Long.
Bà Thiện trình bày:
Tôi xác định không đầu tư tiền để mua thửa đất số 03, nguồn tiền để mua đất này là của bà Tâm. Yêu cầu ông Dũng trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Tâm mà ông Dũng đang giữ.
Đại diện Ngân hàng Kiên Long trình bày:
Ông Dũng đã thanh toán xong số tiền 500.000.000đ mà vợ chồng ông Dũng đứng vay và Ngân hàng đã trả lại Giấy chửng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 03 cho vợ chồng ông Dũng nên Ngân hàng không có yêu cầu gì.
Vợ chồng anh Sang, chị Sen trình bày:
Thống nhất theo ý kiến của bị đơn, yêu cầu ông Dũng trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng Sang, Sen mà ông Dũng đang giữ.
Bà Hải trình bày:
Năm 2018, tôi có chuyển nhượng cho chị em bà Tâm, Nhiên, Thiện diện thửa đất số 03 nhưng họ nhờ ông Dũng đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng đã thanh toán xong, tôi không có yêu cầu gì.
Bà Hoa (vợ ông Dũng); thống nhất theo ý kiến của nguyên đơn.
2. Quá trình giải quyết của Tòa án
Bản án sơ thẩm số 22/2020/DSST ngày 12/11/2020 của TAND huyện SH, tỉnh P quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dũng, buộc bà Nhiên và ông Sơn phải trả cho ông Dũng số tiền 1.752.266.694đ (1.480.000,000đ tiền gốc và 272.266.694đ tiền lãi), Không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng bà Nhiên, ông Sơn và bà Tâm về việc yêu cầu vợ chồng ông Dũng chuyển quyền sử dụng thửa đất số 03 ngay liền cho bà Tâm. Khi bị đơn bà Nhiên và ông Sơn thanh toán đủ số tiền nợ nói trên cho nguyên đơn thì vợ chồng ông Dũng, bà Hoa sang tên cho bà Tâm thửa đất số 3 và trả Giấy chứng nhận cho bà Thiện và trả Giấy chứng nhận cho ông Hiếu, bà Sen.
Ngày 24/11/2020, bà Nhiên, ông Sơn, bà Thiện (với tư cách là người liên quan và đại diện theo ủy quyền của bà Tâm) có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Ngày 17/12/2020, bà Nhiên, ông Sơn, bà Thiện có đơn xin rút kháng cáo (do bà Nhiên nộp cho Tòa án).
Ngày 03/3/2021, TAND tỉnh P ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 01/2021/QĐ-PT.
Ngày 30/9/2021, ông Sơn, bà Nhiên, bà Tâm, bà Thiện, ông Sang, bà Sen, ông Tùng, ông Nghị gửi đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên.
Ngày 13/12/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án sơ thẩm và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại.
Quyết định giám đốc thẩm số 11/2022/DS-GĐT ngày 15/2/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về thủ tục uỷ quyền của bà Tâm đổi với bà Thiện:
Ngày 21/8/2019, bà Tâm gửi đơn khởi kiện yêu cầu ông Dũng trả lại Giấy CNQSDĐ. Ngày 20/9/2019, Tòa án nhân dân huyện SH, tỉnh P thụ lý vụ kiện “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự”; bà Tâm đã lập giấy uỷ quyền cho bà Thiện tham gia tố tụng và toàn quyền quyết định trong phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm; đến ngày 5/11/2019, Tòa án nhân dân huyện SH ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nêu trên do bà Tâm rút đơn khởi kiện.
Tuy nhiên, trong vụ án này ông Dũng là người khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Nhiên, ông Sơn trả 980.000.000 đồng, bà Tâm là người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu độc lập. Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Giấy ủy quyền bà Tâm lập ngày 21/8/2019 ủy quyền cho bà Thiện để xác định bà Thiện là người đại diện theo uỷ quyền của bà Tâm, chỉ triệu tập bà Thiện tham gia tố tụng và Toà án cấp phúc thẩm công nhận đơn xin rút kháng cáo của bà Thiện để ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thâm vụ án là vi phạm nghiêm trong tổ tụng, trái với quy định tại các Điêu 85, Điều 86 và Điều 289
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của vợ chồng bà Tâm được pháp luật bảo vệ.
Về việc bỏ sót người tham gia tố tụng:
Thửa đất số 03 và thửa đất mà bà Thiện yêu cầu ông Dũng trả lại Giấy chứng nhận là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, nhưng Toà án không đưa chồng bà Tâm là ông Nghị, chồng bà Thiện là ông Tùng vào tham gia gia tố tụng là bỏ sót người tham gia tố tụng, vi phạm Điều 73 Bộ luật Tổ tụng dân sự năm 2015, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nghị, ông Tùng.
Về việc tuyên trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Bà Nhiên thừa nhận có nợ ông Dũng số tiền 980.000.000 đồng theo các Giấy mượn tiền. Tại Giấy mượn tiền thể hiện, khi mượn tiền bà Nhiên có thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đẩt đứng tên bà Thiện và bà Sen. Xét thấy việc bà Nhiên thế chấp Chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ông Dũng không được công chứng chứng thực, không đăng ký thế chấp nên việc thế chấp này là không
đúng theo quy định của pháp luật; đồng thời không được vợ chồng bà Thiện, vợ chồng bà Sen đồng ý. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên khi bị đơn bà Nhiên, ông Sơn thanh toán đủ số tiền nợ nói trên cho nguyên đơn thì nguyên đơn mới trả lại các Giấy chứng nhận quyền sử đụng đất cho bà Thiện, bà Sen là xâm phạm đến quyền lợi ích của vợ chồng bà Thiện, vợ chồng bà Sen.
Do vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 11/2022/DS-GĐT ngày 15/2/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nằng huỷ Quyêt định đình chỉ xét xử phúc thẩm và Bản án sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ về Tòa án sơ thẩm xét xử lại.